(Đăng lúc: 04/12/2012 12:00:00 AM)
Tỉnh đoàn Quảng Ngãi In bài  
Tập 1 năm 1922
Nóng bức! Một cái nóng bức mà chỉ chúng tôi, những người Nam Kỳ và những người hân hạnh được ông Utơrây bảo hộ, mới được đặc ân hưởng thụ. Mặt trời nắng đổ hột. Các bạn có biết mặt trời đổ hột là gì không? Trong phương ngữ của chúng tôi, điều đó có nghĩa là tác động của nóng bức dữ dội đến mức mà luôn luôn bạn thấy trước mắt có một cái gì rơi như mưa nhưng đáng lẽ là nước thì là những hạt lửa

NĂM 1922:

RỦI RO CẢNH SINH HOẠT CỦA THỢ THUYỀN AN NAM


Nóng bức! Một cái nóng bức mà chỉ chúng tôi, những người Nam Kỳ và những người hân hạnh được ông Utơrây bảo hộ, mới được đặc ân hưởng thụ. Mặt trời nắng đổ hột. Các bạn có biết mặt trời đổ hột là gì không? Trong phương ngữ của chúng tôi, điều đó có nghĩa là tác động của nóng bức dữ dội đến mức mà luôn luôn bạn thấy trước mắt có một cái gì rơi như mưa nhưng đáng lẽ là nước thì là những hạt lửa.
   
Các vách tường của nhà thờ Sài Gòn nóng bỏng lên như những mảng tường của địa ngục. Cột thiên lôi ánh lên như một lưỡi lê vấy máu và sẵn sàng xuyên thủng da trời bị nấu chín theo nghĩa đen của từ.
   
Từ sáng đến giờ chẳng có một người khách nào! Tôi đã đói và tôi uốn mình khó khăn trong khung hình chữ nhật hợp thành cái ách cho con vật - hình người là người kéo xe tay. Hai gọng của chiếc xe đè nặng lên cánh tay tôi và bánh xe thì kêu rên rỉ như thể chúng khát nước.
   
Tôi và chiếc xe của tôi tiếp tục kéo nhau về hướng Dinh Thống đốc. Những lá bàng rộng bản và lá cau làm thành những tấm gương phản chiếu tập trung toàn bộ sức mạnh của mặt trời đến người đi đường. Người ta cứ tưởng toàn bộ vũ trụ đã biến thành một lò hoả táng.
   
Hai hay ba người da trắng có mặt trên quảng trường; họ là những người da trắng duy nhất có cảm tình với người bản xứ, bởi vì họ là người bằng đồng; nhưng lại là những khách hàng tồi vì họ chẳng bao giờ đi xe kéo!
   
Tôi thấy một bóng người đi ra khỏi dinh. Tôi tự nhủ: "Một người ra khỏi nhà hộp này chắc phải là một người lịch sự, mà một người lịch sự thì không đi bộ dưới trời nắng thế này; ông ta sẽ đi xe; và ông ta sẽ là khách hàng của tôi. Khi tôi thấy áo đen của ông ta, tôi càng lạc quan vì tôi cho đó là một thầy thông (Một người thông ngôn An Nam). Tôi chạy đến đón ông ta. Đó là một cha đạo, một cha đạo đáng kính.
   
Tôi cúi người xuống chân ông ta để ông ta có thể lên xe dễ dàng hơn, đó là cách thanh lịch để đón khách. Đáng lẽ đặt chân lên bệ xe, con người thánh thiện lại muốn đặt chân lên mông tôi. Tôi hiểu ngay cử chỉ ấy, vì tôi đã quen với những người hiền như thế rồi; và tôi bỏ chạy với chiếc xe kéo của tôi; tôi vốn đã quen với những trò nhào lộn này rồi, nghề nghiệp buộc tôi như thế. Trong khi chạy ra xa, tôi còn nghe vị con của Chúa trời lẩm bẩm câu kinh ngẫu hứng: "Khốn kiếp! vị tông đồ nói - người ta không thể bước đi một bước mà không bị bọn xe kéo tồi tàn này quấy rầy!"
   
Sự cố này làm tôi quên cả mệt mỏi, cả đói khát, vì sau khi đạt được khoảng cách khá xa giữa "cha tôi" và tôi, tôi đùa cợt, nghĩ đến Chúa, đến hình ảnh con người, tức là đến người nọ và tôn giáo của anh ta. Khi tôi quay đầu lại thì thấy gậy tông đồ vẫn còn tiếp tục dứ dứ về phía tôi như một que rảy nước phép.
   
Tôi đi, hay đúng hơn, chúng tôi, chiếc xe và tôi, đi về bến đò.
   
Từ trong cái quán bé tẹo của bà Thị Hai1) toát lên một không khí hạnh phúc và sung túc. Gạo trắng như ngà, nước mắm toả ra một hương thơm ngào ngạt làm khoái mũi. Nước chè sôi sùng sục trên bếp. Thật là hấp dẫn. Tôi dừng lại, quyết định mua một bát cơm ngon, biết rằng bà Thị Hai tốt bụng không nỡ từ chối bán chịu cho một người thợ lương thiện.
   
Vừa mới ngồi lên chiếu, tôi thấy một người lính thuỷ đi ngoằn ngoèo trên bến tàu của hãng Sácgiơ Rêuyni. Buông đũa xuống, tôi nhảy ra xe và bằng hai bước chân, tôi đã đứng trước vị khách hàng thứ hai của tôi sáng nay. Đó là một người tốt bụng, anh ta chẳng hề mặc cả giá cả. Anh ta ném cho tôi địa chỉ nơi đến rồi lên xe và ngồi chễm chệ bên mạn phải, còn gói đồ đạc thì để bên tay trái. Tôi chạy những ba hải lý/giờ2), vì không muốn Thị Hai phải ngóng chờ.
   
Đến cảng, tên thuỷ thủ lão luyện lên bờ và bỏ đi, tỉnh bơ, chẳng hề có ý định trả thù lao cho tôi. Tôi yêu sách. Hắn chẳng thèm quay lại. Tôi chạy theo hắn và hét lên: "Trả tiền, ông ơi, trả tiền!"
   
Hắn chuyển gói đồ qua bên trái, tay phải thò vào túi và rút ra một... khẩu súng lục. Vũ khí của văn minh hùng hồn thét lên: Pan! Pan! "Lại một cú nữa xôi hỏng bỏng không!", tôi tự nhủ.
   
Tôi trở lại quán ăn, chè vẫn còn đang bốc khói.

CULIXE
Nguyễn Ái Quốc dịch
Báo L'Humanité, ngày 18-3-1922.

ĐỘNG VẬT HỌC


"Càng học càng thấy mình dốt", đó là câu ngạn ngữ châu á, câu ngạn ngữ đó trái với thông thường, không phải là một trò Tàu, mà là một chân lý chung rộng.
   
Ví như ông Giôdép Caiô, cựu Thủ tướng, một nhà lý tài ngoại ngạch, một nhà văn không phải tồi, không phải tương đối tồi như Anhxtanh nói, sau khi đã cai trị 40 triệu dân Pháp, đã rỡn với hàng triệu, hàng tỷ bạc, đã viết sách viết vở, rồi một buổi sáng nọ, bỗng gãi điên cuồng - không phải là gãi tóc, vì ông ta không có tóc - mà là gãi tai, đồng thời tự hỏi và hỏi người khác: châu Âu sẽ đi tới đâu đây? Nước Pháp sẽ đi tới đâu đây? Câu hỏi tuy có vẻ quá giản đơn, nhưng cho đến nay vẫn chưa được giải đáp. Và có thể còn phải chờ lâu mới giải đáp được, trừ phi...
   
Này, ngài Thủ tướng, xin ngài cho tôi biết chân của châu Âu và chân của nước Pháp ở chỗ nào, tôi sẽ nói ngài hay châu Âu và nước Pháp đi tới đâu!
   
Đácuyn, nhà cực thông thái Đácuyn, từng biết rằng con ngươi của ếch xứ Ôvécnhơ tròn hơn con ngươi của ếch vùng Nốttinhham, và đuôi bồ câu Mêhicô có nhiều hơn đuôi bồ câu ở Thuỵ Điển ba cái lông tơ, nhưng ông lại hoàn toàn không biết gì đến một loài động vật rất đông đúc ngày nay được biết rất rõ ràng; cái loài động vật mà do số lượng, do chất lượng của nó, có thể liệt vào hàng đầu trong giới động vật. Vì hiện tượng này cũng khá thú vị, nên chúng tôi thử trình bày cùng bạn đọc báo Le Paria17.
   
Kết quả của những cuộc nghiên cứu kỹ, càng cho phép chúng tôi khẳng định rằng nguồn gốc loài động vật này cũng lâu đời như nguồn gốc loài người, nếu không phải là lâu đời hơn nữa. Cấu tạo thể chất của nó hết sức kỳ lạ: ở tất cả các loài động vật, sự sinh sản ra lông lá thường là ở đằng đuôi... ở loài động vật này... lại ở trên đầu. Chỉ ở trên đầu, chứ không ở cổ như bờm con ngựa. Lông lá này mịn như len và hung hung, hoặc cứng và đen, tuỳ theo khí hậu nơi nó sống. Khí hậu có ảnh hưởng rất nhiều đến nước da nó, màu da đó đi từ vàng đến đen, chứ ít khi trắng. Dù có những sự kỳ quặc đó, diện mạo của nó đôi khi cũng khá dễ thương. Nó đi hai chân. Nhưng, theo tài liệu quan sát được tại những vùng châu á, thì nhiều khi nó lại được coi như loài bốn chân*. Nói chung, có thể liệt nó vào loài hai tay. Điều làm cho loài động vật này rất đông đúc và có thể sống ở một địa bàn rất rộng trên trái đất, chính là ở chỗ nó rất dễ dàng thích nghi với nhiều thứ đồ ăn hết sức khác nhau. Nó ăn thịt, ăn cỏ, ăn gạo và ăn cả ngân sách nữa. Cần chú ý rằng khi có thể đã tiến đến trình độ ăn ngân sách thì thường bị coi là thoái hoá, vì nó đã mất hết đặc tính tinh thần của nòi giống nó rồi.
   
Óc bắt chước của nó rất phát triển và óc đó không phải nông cạn như ở loài khỉ hay loài vẹt, vì người ta nhận thấy rằng tài bắt chước của nó thường đạt tới chỗ tuyệt khéo và đôi khi còn hơn cả cái mà nó bắt chước nữa.
   
Một vài đức tính thực dụng của nó còn cao hơn cả những đức tính thực dụng của các loài gia súc của chúng ta nữa kia. Một khi thuần dưỡng rồi, thì nó tự để cho người ta hớt lông như con cừu, chất đồ lên lưng như con lừa, và đưa vào lò sát sinh như con bê. Nó rất dễ thôi miên. Nếu bắt ra một con, to nhất hay mạnh nhất trong bầy, và đeo vào cổ nó một vật gì lóng lánh, một đồng vàng hay một thập ác chẳng hạn, thì nó liền trở thành hoàn toàn ngoan ngoãn, lúc đó có thể sai nó làm bất cứ việc gì, bảo nó đi bất cứ đâu cũng được, và các con khác cứ việc theo nó một cách ngu đần như loài thú vật - nếu có thể nói như thế được.
   
Các nhà bác học của B.I.Z.A (British Imperial Zoological Association) vừa cho biết rằng loài thỏ trước bên bờ ấn Độ Dương và Bờ biển Libi vùng Biển Đỏ, bắt đầu tỏ ra có những tiến hoá rõ rệt: nó không chịu để người ta bắt một cách dễ dàng nữa và trốn tránh cảnh làm gia súc. Hiện tượng mới đó không khỏi gây lo ngại cho các giới công nghiệp - khoa học trên thế giới, và đặc biệt là cho những giới đó ở đô thị, vì tuy thịt loài vật này không ăn được vì không ướp lạnh được, nhưng máu và mồ hôi của nó lại đã trở thành những thứ không thể thiếu để làm béo những cái máy làm dồi thịt.
   
Để tóm tắt bản trình bày ngắn này, chúng tôi xin nói rằng tên chủng loại của cái giống vật dị kỳ đó là Dân bản xứ thuộc địa (Colonial Indigéna) nhưng tuỳ theo từng vùng mà nó có tên gọi khác nhau: người An Nam, người Mangát, người Angiêri, người ấn Độ, v.v..

NGUYỄN ÁI QUỐC

T.B. - Chúng tôi vừa nhận được của một đồng nghiệp của chúng tôi là nhà bác học về tự nhiên học Đờ Páctu1) một tiêu bản hiếm có của loài này, hình như cũng có họ hàng thân thuộc gì đó với loài mà chúng tôi vừa nghiên cứu. Loài đó, theo bạn đồng nghiệp của chúng tôi, thì tên nó là: Vô sản. Một ngày gần đây, chúng tôi sẽ nghiên cứu giống với hiện tượng mới này: Vô sản Đờ Páctu.
 
Báo Le Paria, số 2, ngày 1-5-1922.

MẤY Ý NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ THUỘC ĐỊA


Từ khi Đảng Cộng sản Pháp đã thừa nhận 21 điều kiện của Mátxcơva18 và gia nhập Quốc tế thứ ba19, Đảng đã tự đặt cho mình một nhiệm vụ đặc biệt khó khăn trong số các nhiệm vụ khác: chính sách thuộc địa. Đảng không thể thoả mãn với những bản tuyên ngôn chỉ thuần là bằng tình cảm và không có kết quả gì như thời Quốc tế thứ nhất20 và Quốc tế thứ hai21 nữa, mà cần phải có một kế hoạch hoạt động chính xác, một chính sách có hiệu quả và thiết thực.
   
Trong vấn đề này, Đảng gặp nhiều khó khăn hơn mọi vấn đề khác, và đây là những khó khăn chủ yếu:
   
1. Diện tích các thuộc địa rất rộng. - Không kể những "khu vực uỷ trị" mới, lấy được từ sau chiến tranh, nước Pháp có:
ở châu á, 450.000 km2 ; ở châu Phi, 3.541.000km2 ; ở châu Mỹ,108.000 km2; ở châu Đại Dương, 21.600km2 . Tổng cộng: 4.120.000 km2 (gần gấp tám lần diện tích nước Pháp) với một dân số là 47.000.000 người. Số dân đó nói hơn 20 thứ tiếng khác nhau. Tình trạng có nhiều tiếng nói khác nhau như vậy làm khó khăn cho công tác tuyên truyền, bởi vì trừ mấy thuộc địa cũ ra, thì một tuyên truyền viên người Pháp chỉ có thể nói chuyện với quần chúng bản xứ qua người phiên dịch mà thôi. Mà phiên dịch thì khó nói lên được hết ý, vả lại trong những xứ bị cai trị một cách độc đoán ấy, thật khó mà tìm ra được một người phiên dịch những lời lẽ cách mạng.
   
Lại còn những trở ngại khác nữa. Tuy người dân bản xứ ở tất cả các thuộc địa đều là những người bị áp bức và bóc lột như nhau, nhưng trình độ văn hoá, kinh tế và chính trị giữa xứ này với xứ khác lại rất khác nhau. Giữa An Nam với Cônggô, Máctiních hay Tân Đảo, hoàn toàn không giống nhau chút nào, trừ sự cùng khổ.
   
2. Tình trạng thờ ơ của giai cấp vô sản chính quốc đối với các thuộc địa. - Trong những luận cương về vấn đề thuộc địa22, Lênin đã tuyên bố rõ rệt rằng "nhiệm vụ của công nhân ở các nước đi chiếm thuộc địa là phải giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải phóng của các nước phụ thuộc". Muốn thế, công nhân ở chính quốc cần phải biết rõ thuộc địa là cái gì, phải biết những việc gì đã xảy ra ở thuộc địa, biết rõ nỗi đau khổ - hàng nghìn lần đau khổ hơn công nhân ở chính quốc - những người anh em của họ, những người vô sản thuộc địa phải chịu đựng. Tóm lại là công nhân ở chính quốc phải quan tâm đến vấn đề thuộc địa.
   
Tiếc thay, một số đông chiến sĩ vẫn còn tưởng rằng, một thuộc địa chẳng qua chỉ là một xứ dưới đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh với mấy người khác màu da, thế thôi. Và họ hoàn toàn không để ý gì đến.
   
3. Tình trạng dốt nát của người dân bản xứ. - Trong tất cả các nước thuộc địa, ở cái xứ Đông Dương già cỗi kia cũng như ở xứ Đahômây trẻ trung này, người ta không hiểu đấu tranh giai cấp là gì, lực lượng giai cấp vô sản là gì cả, vì một lẽ đơn giản là ở đó không có nền kinh doanh lớn về thương nghiệp hay công nghiệp, cũng không có tổ chức công nhân. Trước con mắt người dân bản xứ, chủ nghĩa bônsêvích - danh từ này vì thường được giai cấp tư sản dùng đến luôn, nên đặc sắc hơn và mạnh nghĩa hơn - có nghĩa là: hoặc sự phá hoại tất cả, hoặc sự giải phóng khỏi ách nước ngoài. Nghĩa thứ nhất gán cho danh từ ấy làm cho quần chúng vô học và nhút nhát xa lánh chúng ta; nghĩa thứ hai thì dẫn họ đến chủ nghĩa quốc gia. Cả hai điều đó đều nguy hiểm cả. Chỉ có một số ít người trong nhân dân hiểu được thế nào là chủ nghĩa cộng sản. Nhưng số người thượng lưu ấy,- thuộc giai cấp tư sản bản xứ1) và là cột trụ của giai cấp tư sản thực dân, - cũng không thích thú gì việc chủ nghĩa cộng sản được người ta hiểu và được truyền bá rộng rãi cả. Trái lại, giống như con chó trong chuyện ngụ ngôn, họ lại thích đeo cái vòng cổ để kiếm miếng xương của chủ. Nói chung, quần chúng căn bản là có tinh thần nổi dậy, nhưng còn rất dốt nát. Họ muốn giải phóng, nhưng họ chưa biết làm cách nào để đạt được mục đích ấy.
   
4. Những thành kiến. - Vì giai cấp vô sản ở cả hai đằng đều không hiểu biết lẫn nhau, nên đã nảy ra những thành kiến. Đối với công nhân Pháp, thì người bản xứ là một hạng người thấp kém, không đáng kể, không có khả năng để hiểu biết được và lại càng không có khả năng hoạt động. Đối với người bản xứ, những người Pháp - mặc dầu họ là hạng người nào cũng đều là những kẻ bóc lột độc ác. Chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản không bỏ lỡ dịp lợi dụng sự nghi kỵ lẫn nhau đó và sự phân biệt đẳng hạng giả tạo về nòi giống đó để ngăn cản việc tuyên truyền và để chia rẽ những lực lượng đáng phải đoàn kết lại.
   
5. Đàn áp dã man. - Nếu bọn thực dân Pháp rất vụng về trong việc phát triển nền kinh tế ở thuộc địa, thì họ lại là những tay lão luyện trong nghề đàn áp dã man và trong việc chế tạo ra cái lòng trung thành bắt buộc. Những người như ông Găngđi và ông Đờ Valơra có lẽ đã lên thiên đàng từ lâu rồi nếu các ông ấy sinh ở một trong những thuộc địa của Pháp. Bị tất cả mọi thứ thủ đoạn thâm hiểm của các toà án quân sự và toà án đặc biệt vây xung quanh, một người chiến sĩ ở bản xứ khó lòng tiến hành việc giáo dục đồng bào bị áp bức và dốt nát của mình mà không sa vào nanh vuốt của các nhà đi khai hoá cho họ.
   
Trước những khó khăn ấy, Đảng phải làm gì?
   
Tăng cường công tác tuyên truyền của Đảng để khắc phục.

NGUYỄN ÁI QUỐC
Báo L'Humanité, ngày 25-5-1922.


DƯỚI CUỘC "KHAI HÓA CAO CẢ"


Ông Anbe Xarô đã tuyên bố với nhóm thuộc địa trong Hạ nghị viện rằng: "Trung thành với sứ mệnh cao cả đã làm rạng danh nước Pháp trên thế giới và lịch sử, nước Pháp đầy lòng bác ái đang theo đuổi tại hải ngoại một sự nghiệp tiến bộ, chính nghĩa, sự nghiệp dìu dắt các chủng tộc, sự nghiệp khai hoá cao cả; tính chất cao quý của sự nghiệp đó làm cho truyền thống rực rỡ lâu đời của nước Pháp ngày càng thêm phần rực rỡ".
   
Thế mà người ta đã đem thực hiện cái sự nghiệp tiến bộ, chính nghĩa, v. v. đó như thế này:
   
Mượn cớ bài trừ nạn du đãng, người ta thi hành một chế độ khổ sai với dân bản xứ ở Mađagátxca. Như là: trên mặt trái một tờ giấy trong thẻ căn cước của người bản xứ, có dành riêng vài ô nhỏ để người chủ ghi chú. Trong ô thứ nhất, có in những điều ghi chú chủ yếu, người chủ phải ký nhận ở dưới.
     
Làm thuê cho ông ...............................................................
      
Tại ......................................................................................
      
Từ ....................................... đến........................................
                                               
Người chủ:
   
Người bản xứ nào mà thẻ căn cước không hợp lệ như đã chỉ dẫn trên đây đều bị coi là du đãng, sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến một năm, và sau khi mãn hạn tù, có thể còn bị đày biệt xứ từ 5 đến 10 năm.
   
Bây giờ ta hãy xem các ông chủ đi khai hoá ấy đối xử với công nhân bản xứ như thế nào.
   
Có một bác cai đến hỏi tiền công cho một người thợ của mình, thì một ông chủ nọ đã viết giấy trả lời như sau: "Bảo cái con lợn ấy lấy c...1) mà ăn, chỉ có món ấy là hợp với nó thôi".
   
Một ông chủ khác, khi thấy nhà bị mất trộm 1.000 phrăng, liền lôi tám người bản xứ làm thuê cho mình ra tra điện để bắt họ thú nhận. Về sau, người ta tìm ra kẻ trộm chính là cậu ấm con ông chủ. Nhà khai hoá - con, đã ăn chơi thoả thích. Nhà khai hoá - bố, thì không bị lôi thôi gì cả. Và những người có phúc được nước Pháp bảo hộ thì còn nằm trong nhà thương ở Tananarivơ.

NGUYỄN ÁI QUỐC
Báo La Vie Ouvrière, ngày 29-5-1922.

 

PARI
(Trích "Những bức thư gửi cô em họ"
do tác giả dịch từ tiếng An Nam)


Ở Pari23 có một vùng, cô em họ thân mến của tôi ạ, tự một mình nó nó trình diễn ra được đủ bộ mặt và đủ tâm lý của cả Pari, cả nước Pháp, cả vũ trụ. Ai muốn nghiên cứu tình hình xã hội thời buổi ta ngày nay, thì chỉ cứ đi ngang vùng này mà thôi là đáng giá cả một pho sách lớn cỡ bách khoa toàn thư vậy.
   
Vùng gồm ba xóm chính, là Êtoan, Batinhon, Êpinét. Cô vốn có trí tưởng tượng phong phú, nên tôi chắc thế, chỉ cần đọc tên mấy xóm đó là cô đã đoán ra được thứ bậc xã hội của những nhóm này rồi. Tôi ở đây như đang nghe thấy cô tự thì thầm với mình: Êpinét, Êpinét - Những cái Gai con! cuộc sống ở đây hẳn phải chật vật lắm, gai góc lắm. Còn Êtoan - Ngôi sao, cái đó hẳn phải là nơi cư ngụ của những kẻ diễm phúc, có đặc quyền đặc lợi; một Bồng Lai tiên cảnh chứ gì nữa.
   
Vâng, cô em họ nhỏ của tôi ơi, cô đoán đã gần gần đúng thế đấy, ấy nhưng tôi vẫn cứ phải tả cho cô thấy cái sang trọng của bên này và cái đau khổ của phía kia, sang trọng ra sao, đau khổ ra sao thì cái đầu óc xinh xắn của cô chẳng thấy nổi nó mênh mang đến thế nào đâu. Xóm Êtoan thì bắt đầu với Khải hoàn môn. ấy là một đài kỷ niệm nguy nga dựng lên để ghi nhớ tài danh quân phiệt của Napôlêông. Bây giờ thì nó dùng làm mồ chôn một người lính không tên tuổi chết trong đại chiến.
   
Sự đời sao nó mỉa mai thế, cô nhỉ! Người ta đem thu lại để cùng một chỗ cả cái hư vinh của tác giả bao cuộc giết chóc kinh khủng ở châu Âu và cả nắm di hài của nạn nhân cuộc tàn sát thế giới!
   
Cái đài này là nơi lưu tồn tượng trưng những nguyên nhân của mọi cuộc chiến tranh trước kia và sau này; cũng như người lính không tên tuổi này là hiện thân tượng trưng của tất cả những ai bị giết hại để thoả mãn cái tham vọng và cái kiêu kỳ của bọn tướng lãnh. Bởi vì ai mà đã đọc tên những chiến trận đầy tràn lịch sử từ đầu đến cuối, ai mà đã đọc bấy nhiêu tên khắc lên riêng một đài kỷ niệm này thôi, thì phải kinh hoàng thấy, biết bao nhiêu là nông dân, bao nhiêu là công nhân đáng thương đã ngã xuống không tên tuổi, như kẻ đang nằm đây!
   
Để một chuyến thư sau, tôi sẽ kể cho cô nghe về anh lính tội nghiệp này, khi còn sống đã phải đương đầu với những tràng súng đại bác liên thanh như thế nào, nay vẫn phải đương đầu như thế nào với những tràng diễn văn ngoại giao và tỏ tình thân thiết vờ vịt của các vị sứ thần và của các cụ Phị2). Hôm nay, hãy trở lại câu chuyện vùng này đã.
   
Vậy, tôi đang nói với cô rằng Êtoan là xóm các phủ đệ thênh thang, các vườn cây hoa nở sum suê, các cỗ ngựa xe vương giả. Đó là một ổ xa hoa, tứ xứ, thừa thãi tràn trề và biếng lười loè loẹt. Đó là thiên đường bọn ăn bám đủ các cỡ và đủ các xứ. Sang trọng là sang trọng cho đến cả con vật. Chả nói làm gì đến cái giá ngông cuồng thả ra bao một con mèo hảo hạng hay một con ngựa loại khoái, nó đủ để nuôi sống toàn bộ dân cư một tỉnh nước ta, cứ cái con khuyển xóm này là cũng được sống lộng lẫy và tốn kém hơn người đi làm thợ nhiều.
   
Rời chính lộ Vagơram và đại lộ Cuốcxen, là vào xóm Batinhon. Xóm này là xóm kiểu con dơi, nghĩa là dân bản địa nơi này thuộc một giai cấp trung gian. Họ không giàu sụ để bay nhảy như bọn cừ khôi trong giới tư bản, mà cũng chẳng đủ nghèo để phải vất vả giống đám thợ thuyền. Phong vũ biểu đo mức giàu có của họ cứ là theo sự thăng trầm kinh tế hằng ngày mà lên xuống; họ có thể hôm nay thì thư thái trồng bắp cải, để rồi hôm sau là phải bán đứt vườn tược đi. Dân đây là tiểu thương, là ông xếp phòng giấy, là ông cò về hưu. Bà đi đâu là có một con chồn1) to quấn quanh cổ và một con chó con bồng trên tay. Ông thì bao giờ cũng có cái gì chểnh mảng cài khuyết ve áo, một củ kiệu Công huân Nông nghiệp hoặc là bông hoa tím của vị chức sắc Học chính. Bà canh cửa thì sáng sáng chăm chút tưới những chậu hoa thu hải đường cổ truyền của bà bày trên cửa sổ, sáng sáng giũ cái thảm trải cầu thang chính - tấm thảm này bướng bỉnh nhất định không chịu leo cao hơn tầng gác ba. Cứ suy quy luật vận hành của vạn vật thì dân cư xóm này có nhiều khả năng vô sản hoá hơn là sản sinh ra những đức ngài tư bản chủ nghĩa.
   
Xóm Êpinét là phía chân của cái thang. Nó là người bà con khốn khó, kẻ thừa kế bị gạt bỏ của hai xóm kia. Nó gần như là thuộc một giống người khác, ra vẻ bẽn lẽn, khiêm nhường, bị cái khốn cùng nó đè bẹp. Này cô, hãy xem ông bác mình ép mía lấy đường theo cái kiểu nghìn năm xưa cũ của dân ta, thì cô nghĩ ra được cái cảnh xã hội ở đây nó thế nào. Có bao nhiêu nước ép ngon ngọt thì cứ tuôn cả ra một bên cối, còn bên kia thì chỉ có bã, bẹt ra, quắt lại. Đây cũng thế. Một bên là giàu sang và nhàn rỗi, một bên là cần cù và thiếu thốn. Lôi thôi và gầy guộc như ngón tay khoằm khoằm của con mụ phù thuỷ già, ống lò sưởi ở Êpinét mùa hè thì um khói và mùa đông thì lại như tắt ngấm. Trông xa, nhà cửa khẳng khiu trong xóm giống y mặt người vậy, những bộ mặt người ngơ ngác mà cái bề mặt tiệm của một bác buôn giẻ rách hay của một hiệu thịt ướp lạnh thì làm ra dáng cái miệng móm, còn cửa sổ đã toác toạc thì dùng làm những con mắt nhẻm những dử lại cận thị. Xóm những con người làm lụng, sản xuất và đói meo. Xóm người làm thợ, xóm người nghèo, xóm người cùng khốn.
   
Giữa xóm, có một mẩu phố dài chừng dăm chục mét. Quanh phố thấy tề tựu một ngôi trường tiểu học, một nhà máy và một quán cháo bình dân. Có phải thế không nào, cô em họ thân mến, cả cái bộ sậu ấy thế là rất mực tiêu biểu? Khi còn bé, thì trẻ con đi học để mà biết tôn trọng quyền thiêng liêng của các ông chủ. Lớn lên, anh thợ rời nhà trường đi góp phần làm giàu cho giới chủ nhân ông mà mình đã được học tập sùng bái cái uy nghi. Già rồi yếu đi, thì ông lão được, vẫn giới chủ nhân ông đó, mà cụ đã làm giàu cho, tống cụ ra ngoài đường để nhờ chẩn bần mà sống nốt cuộc đời hay lam hay làm của mình!
   
Mỗi sáng, tôi phải đi ngang quán cháo bình dân để đến xưởng làm việc của tôi. Trời đẹp hay xấu, nắng ấm hay tuyết rơi, thì tôi cũng cứ thấy tụm lại trước cửa ngôi nhà công này lối ba chục các cụ. Các cụ ăn bận thật không tưởng tượng được. Người thì khoác cái chăn trên lưng, người thì lại mặc cái áo dài bó của hầu bàn trưởng - đầu đội cái mũ rơm đã vàng úa, người khác nữa tả tơi đụp vá muôn màu sắc. Giày các cụ, mõm há ra như hộp thư cả, cười nhạo với mọi khách qua đường. Trong lúc đợi cửa mở và để giết thời giờ, các cụ xem mấy mẩu báo Le Matin24 hay tờ Le Petit Parisien25 nhặt được chẳng biết ở đâu nữa. Trời có lạnh quá thì các cụ thổi thổi lên ngón tay hoặc là giở điệu nhất bộ ra nhảy để tự sưởi ấm. Một cụ nhìn tôi cả cười: "Chú xem, sưởi kiểu trung tâm của bọn này đấy!".
   
Dáng các cụ tồi tàn thế, nhưng ai nấy đều thật dễ thương, và các cụ trông thấy tôi mãi rồi, thì cuối cùng ấy cũng là có quen biết. Một thứ tình bằng hữu thế là nảy ra giữa chúng tôi và hai bên chào nhau khi đi qua.
   
Tôi đặc biệt để ý một cụ già trong số đó. Ông cụ sạch sẽ, tươm tất, và bộ dạng biểu lộ một nỗi buồn phiền được nén xuống, một niềm tự trọng chẳng chịu để ngã khuỵu, ngay trong cơn quẫn bách. Cụ có đeo một dải huy chương thưởng công cứu nạn. Cụ bao giờ cũng cứ đứng đằng sau người khác.
   
Một hôm, tôi đến bắt tay cụ và nói với cụ: "Cố ơi, cố có vui lòng cho phép được mời cùng dùng một bữa lót dạ, chủ nhật tới, được không?". Cụ đáp: "Ông tử tế quá, thưa ông, thế cho nên tôi từ chối thì hoá ra phụ lòng tốt của ông, vậy xin nhận".
   
Chúng tôi cùng đến một quán ăn nhỏ. Đặt xong món ăn, chúng tôi chuyện trò, và ông cụ bảo tôi: "Tôi không dám tự tiện ngỏ lời trước với ông, bởi vì trước hết ông là người nước ngoài, thế rồi tôi lại ngại làm phật lòng ông, thanh niên dễ tự ái thấy có người đến bắt chuyện lại như tôi, một lão già nghèo khổ, chẳng khác đứa ăn mày vậy. Nhưng mà cứ mỗi lần ông đi qua trước mặt tôi, là lòng tôi lại tràn ngập một niềm đau đớn khôn cùng, tôi chỉ muốn khóc. Tôi rất hiểu ông lấy thế làm lạ, nhưng ấy là tại thế này: thấy ông, là tôi lại nhớ thằng con thứ của tôi, tôi đã mất nó trong trận giặc. Nó cũng khoảng tuổi ông đấy. Chắc ông hăm nhăm, hăm sáu chứ gì? - Hăm sáu, cố ạ, tôi trả lời. - Đúng rồi, nó kém ông một tuổi. Ông không chán tai thì để tôi kể chuyện nó ông nghe, chuyện nó mà thật ra là chuyện tôi. - Xin mời cố, nghe chuyện cố sẽ thích thú lắm. - Thời tôi còn ít tuổi, ông bạn cùng bàn đáng kính của tôi kể, tôi làm nghề hàng hải đăng bạ. Tôi đã có đi vòng quanh thế giới nhiều lần. Tôi cũng có lần đến xứ ông, đến Sài Gòn, đến Hải Phòng. Sau tôi tằn tiện cưới một cô gái nông thôn hiền lành. Vợ chồng đến lập nghiệp ở vùng Bắc. Nhà tôi mở một cửa hàng nhỏ bán gia vị vặt vãnh, còn tôi thì vào làm một nhà máy. Vợ chồng tôi có hai trai, một gái, ba cháu thật là của trời cho ông ạ! Nhà tôi với tôi, bọn tôi chịu khó kham khổ cũng nhiều, nuôi được các cháu ăn học, nó giỏi giang lắm. Bà con lối xóm đều lấy làm thèm thuồng, vì các cháu nết na, thật là ngoan ngoãn, chăm làm, lại có học. Cháu Môrixơ là cháu lớn, làm nghề thợ vẽ. Cháu Anbe thì làm thợ máy. Em gái các cháu, là cháu Yvon, nó là một bông hoa xinh xinh mười tám cái xuân xanh- như ở xứ tôi người ta hay nói văn hoa thế - hoa làm si ngây lứa trai khắp vùng, cháu nó đánh máy chữ. Mỗi đứa kiếm được đồng tiền cũng kha khá, đủ cho mình và cho vợ chồng chúng tôi. Ban ngày thì các cháu đi làm, tối đến cả mấy cháu mải mê học hành. Chủ nhật nào cũng cả ngày bàn luận với nhau những cái học được trong tuần. Nói thật tình để ông hay, cứ nghe các cháu nó bàn nó nói là sướng lạ sướng lùng; ấy chính các cháu đã dạy chúng tôi, mẹ các cháu với tôi, biết được không biết bao nhiêu thứ. Vậy là vợ chồng chúng tôi thật là đôi bố mẹ sướng nhất trần đời.
   
"Chiến tranh bùng nổ. Cháu Môrixơ bị thương nặng từ đầu, ít lâu sau thì chết. Cháu Anbe thì bị ghi là mất tích, sau ba tháng chiến trận. Cứ thế là nhà tôi và cháu gái hoá điên lên, điên vì đau đớn. Làng tôi là cái đích cho pháo nã, đạn Pháp đến với chúng tôi cũng nhiều ngang đạn Đức; đạn nó không có quốc tịch, nên đạn bên này hay bên kia thì cũng đều phá phách đồ đạc, cũng đều giết hại người ta, dửng dưng như nhau, tàn khốc như nhau.
   
"Một hôm nọ, trong gian nhà chúng tôi ở đã đổ vỡ đến nửa, vợ tôi cùng cháu gái tôi đang nấu nướng, thì một cái nồi - chẳng phải loại nồi Na Uy nổi tiếng của Lui Phorextơ đâu, mà là cái loại nồi nó giập be giập bét tuốt - nó bổ xuống.
   
"Một tiếng nổ kinh hồn, rồi tất cả hất tung lên. Tôi thoát thân vì đang xuống tầng hầm lấy cái gì đó. Đến khi lại người, từ dưới hầm lên, thì lên hết cầu thang, tôi chẳng còn thấy nhà, thấy cửa, thấy vợ, thấy con đâu cả nữa, mà chỉ thấy một khoảng trống không, một khoảng trống không khủng khiếp, hãi hùng, một khoảng trống không nó lấp đặc không trung bằng cái não nuột, cái tận cùng, cái chết chóc, cái tan hoang. Tôi quá sững sờ để còn hoảng hốt... Nhưng hãy chờ đấy, đã hết đâu! Cái lúc ghê gớm nhất trong cả đời tôi, là lúc mà tôi nhận ra trong đống nhà cửa vụn nát, một cái bàn tay máu me của cháu Yvon tội nghiệp của tôi, rồi cách mấy bước, là một cái chân còn giày tất y nguyên của người vợ đáng thương của tôi. ấy bấy giờ, ấy bấy giờ...".
   
Đến đây, ông già tái nhợt. Tôi đọc thấy trong đôi mắt cụ, bỗng dại đi, một nỗi niềm đau xót và căm hờn không sao tả xiết. Một cơn co giật làm cụ toàn thân run rẩy. Cụ tỳ hai bàn tay đang quắp lại lên mép bàn. Hai chân cụ di di đều nhịp, như phát sốt, trên sàn nhà, mà căng gân cốt ra như vậy, thì là khi nào con người ta đang cố kìm lại một niềm xúc động đang muốn bùng ra. Tôi nhỏ nhẹ bảo cụ: "Thôi vừa rồi, cố ơi! Xin để hôm khác cố kể cho nghe. Cố xơi củ khoai rán, cố nhé!". Ông cụ như không nghe thấy tôi nói; cụ thở dài một hơi, nói tiếp: "Đấy ông xem, ông thân mến, chiến tranh, cuộc chiến tranh trời tru đất diệt này tôi có cái gì thì nó đã giết sạch cả, nào là hạnh phúc, nào là nhà cửa, nào người vợ quý, nào bầy con yêu. Còn tôi, thì bây giờ tôi nhờ thiên hạ bố thí để sống qua ngày, sau bấy nhiêu năm trời làm ăn, cực nhọc. Biết đâu, vâng, biết đâu chẳng phải chính cháu Anbe đáng thương của tôi là người bây giờ đây đang nằm đó dưới Khải hoàn môn!".
Cụ gạt một giọt nước mắt thật to, tay run run nâng cái cốc mà tôi vừa rót rượu vào, miệng nói: "Nào, chúc sức khoẻ ông!".
 
Báo L'Humanité, ngày 30 và 31-5-1922.

BÌNH ĐẲNG


Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó bằng những châm ngôn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng, v.v..
   
Nhưng, hãy xem tay chiến sĩ về bình đẳng ấy đã thực hiện bình đẳng như thế nào.
   
Cùng làm một việc trong cùng một xưởng, người thợ da trắng vẫn được trả lương hậu hơn nhiều so với bạn đồng nghiệp khác màu da.
   
Trong các công sở, những người bản xứ mặc dầu đã làm việc lâu năm và mặc dầu rất thành thạo công việc, vẫn chỉ lĩnh một khoản tiền công chết đói, trong khi một người da trắng mới được vào, làm công việc ít hơn, thì lại lĩnh lương bổng nhiều hơn.
   
Có những thanh niên bản xứ đã học qua các trường đại học của chính quốc và đậu bằng tiến sĩ y khoa hoặc luật khoa, vẫn không thể làm được nghề nghiệp của mình trong nước mình nếu họ không vào quốc tịch Pháp. (Mọi người đã biết, một người bản xứ muốn được vào quốc tịch Pháp như vậy thì khó khăn và nhục nhã như thế nào rồi).
   
Phải bỏ ruộng nương và nhà cửa đăng vào lính "tình nguyện", những người dân bản xứ ra lính đã được nếm mùi ngay ý nghĩa mỹ miều của cái thứ "công bằng" quái gở mà họ đang phải bảo vệ này.
   
Cùng một cấp bậc, nhưng người da trắng gần như bao giờ cũng được xem là cấp trên của người bản xứ. Người sĩ quan bản xứ phải chào và tuân lệnh sĩ quan da trắng. Cái chế độ đẳng cấp phân biệt "nhân chủng - quân sự" ấy lại còn rõ rệt hơn nữa khi những người lính da trắng và lính khác màu da cùng đi chung trên một chuyến xe lửa hoặc tầu thuỷ. Ví dụ như việc mới nhất gần đây:
   
Hồi tháng năm, chiếc tàu Ligiê chở 600 lính người Mangát từ Pháp sang Mađagátxca. Các hạ sĩ quan người bản xứ thì chen chúc dưới hầm tàu, còn đồng nghiệp của họ, những hạ sĩ quan da trắng, thì được đường hoàng nằm trong các buồng dành riêng.
   
Hẳn những người anh em khác màu da chúng ta, nóng sôi lên vì các nồi súpde nếu không phải vì lý tưởng, và tỉnh dậy vì tiếng động ầm ầm của chân vịt quay hay vì tiếng gọi của lương tri, có thể suy nghĩ và hiểu rằng cái chủ nghĩa tư bản tốt đẹp kia vẫn coi họ và bao giờ cũng chỉ coi họ như những kẻ ôlô malôtô (1) mà thôi.

NGUYỄN ÁI QUỐC
Báo L'Humanité, ngày 1-6-1922.

1) Từ ngữ Latinh, có nghĩa là kẻ tanh hôi, bẩn thỉu.


LỜI THAN VÃN CỦA BÀ TRƯNG TRẮC


Quốc vương nước Nam sắp làm "khách của nước Pháp". Gọi là có lời chào mừng tí ti, chúng tôi kính dâng ngài giấc mộng này của đồng chí Nguyễn ái Quốc của chúng tôi, người bầy tôi trung thành của ngài.
   
Đêm tối quằn quại dưới làn mưa nhỏ hạt dầm dề. Mảnh trăng vàng vọt cố bíu trên những mái lều tranh. Cây đẫm ướt đầm đìa nước mắt tuôn rơi. Gió thổi qua những cụm lá mệt mỏi va nhau thành tiếng kinh rợn. Cành cây vặn vẹo như những cánh tay ma quái, và những đám nước bị từng cơn gió đột ngột quất, cứ nức nở. Cảnh vật nước Nam, lồng trong cây cỏ um tùm, vốn tươi vui và thơ mộng thế dưới ánh trăng, nay buồn thảm lạ lùng. Cơn hấp hối đang chơi vơi khắp. Tai ương lảng vảng đâu đây.
ánh sáng lừ đừ của những cây nến thơm chấp chới đầu ngọn bấc cong queo, hắt lên những cây cột sơn mài nhẵn bóng trong cung điện những bóng đen lung lay và những con mắt hấp háy. Bọn quan hoạn lim dim uể oải trên chiếc chiếu trải dưới đất ở một góc nhà. Như cảm thấy được có im lặng đang bò lê.
   
Trống canh vừa điểm ba tiếng. Tùng, tùng, tùng! Các anh là người phương Tây, các anh chẳng hiểu thế là thế nào cả, hử? Tùng, tùng, tùng! Nhân nó lên năm thế là ba giờ của các anh đấy. Đây là thời khắc ban đêm lúc lương tri cất cao tiếng. Lúc các đống mả khạc ra những kẻ nằm bên trong, họ lìa khỏi những tấm liệm he hé mở, để ra ngoài đi dò đi dẫm, cất lên tiếng rú hoan lạc. Lúc đầu óc con người đầy rẫy những bóng hình, mộng mị. Tùng, tùng, tùng! Nhân nó lên ba, thì ấy là con số chín, con số tận cùng trong những con số chẳng thể chia cũng chẳng thể nhân, mà theo vua Phục Hi thì nó biểu hiện sự suy đốn của một sinh linh được coi như cùng tột (dương cửu).
   
Đó chính là lúc Thiên tử nằm mơ. Ngài mơ thấy những con rồng chạm trên tủ, bàn bỗng biến động, hoá thành những con rắn gớm ghiếc, mở thao láo những con mắt đỏ ngầu tia máu. Còn những con phụng hoàng, giống chim tượng trưng cho uy quyền vua chúa, thì vươn chiếc cổ dài ngoẵng tua tủa lông, quệt mỏ xoè cánh, y hệt đám gà trống cáu kỉnh, đáng ghét. Mọi vật bằng ngọc thạch, bằng châu báu, đều xỉn đi, xám xịt lại. Tất cả cứ từ từ quay tròn, và tan dần, tan dần. Rồi một bóng ma trùm khăn, trăng trắng hiện lên. Nhà vua kinh hoàng run lên lập cập, vì không phải vua chúa nào cũng đều can đảm như Hămlét, và thông minh như thế thì lại càng không. Ngài muốn kéo chiếu che mặt mà không được.
   
Đường bệ và giận dữ, bóng ma nói với vị chủ hoàng cung thế này:
   
- Mi có nhận ra ta không, đứa con khốn khổ kia ơi! Ta là một trong những người khai sáng nước Nam tươi đẹp này đây. Ta là Trưng Trắc, năm 391) đã cùng em gái ta là Trưng Nhị và đồng bào đánh đuổi bọn xâm lăng, trả thù chồng, giải thoát quê hương. Đừng có run lên như thế, con ơi! Mà phải lắng nghe lấy lời mẹ bảo! Chẳng hay mi có biết rằng, theo tập tục nghìn năm của nước Nam ta xưa cũ thì Hoàng đế là chịu mệnh trời để trị dân, vì thế mà được coi là con của trời, cha mẹ của dân?
   
"Vua muốn xứng với lòng trời và làm tròn nhiệm vụ chí tôn của mình thì phải chịu khổ trước dân và chia sướng sau dân. Vua phải tuân lệnh trời, mà tiếng dân chính là truyền lại ý trời. Bằng không thì ấy là trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy.
   
"Giở sử đất nước ra mà xem, mi sẽ thấy tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn. Lý Bôn (544)2) , với một nhúm nghĩa sĩ, đã nổi dậy và bẻ gãy ách đô hộ của Hán tộc. Ngô Quyền (938) đã phá tan đạo quân nước ngoài kéo vào đánh chiếm đất đai Tổ quốc ta.
   
"Dân ta sống trong hạnh phúc và thịnh vượng dưới triều nhà Đinh. Năm 9803), Lê Đại Hành đã dũng cảm không chịu khuất phục trước yêu sách của láng giềng hùng mạnh hơn mình gấp bội, ông đã đánh thắng địch, giết chết tướng địch. Do đó đã giải thoát được đồng bào khỏi nạn nô dịch.
   
"Quân Mông Cổ đi đến đâu phá sạch đấy, đã bị nhà Trần vẻ vang của chúng ta đánh bại (1225)4). Lê Lợi đã hùng dũng đứng ra lãnh đạo cuộc cách mạng nước Nam, đập tan chế độ tàn bạo và hạch sách mà những kẻ tự xưng là bảo hộ ta bắt ta chịu.
.....
   
"Thật là nhục nhã thậm tệ, thật là chán ngán ghê gớm, thật là cay đắng ê chề xiết bao cho các vị, nếu từ những tầng mây, tổ tiên mi phải trông thấy dân tộc mà các vị đã giành được tự do nay chịu phận nô lệ, đất nước đã được các vị giải thoát nay lâm vào cảnh nô dịch, kẻ kế tục ngai vàng của các vị nay sống trong ươn hèn.
   
"Mặc dầu lễ nghi không cho phép các vị nguyên thủ nước ta rời khỏi cung cấm, thế nhưng chúng ta vẫn phải đau buồn nhận thấy rằng vẫn có những bậc quân trưởng phải lưu vong.
   
"Năm 14071), Tầu (phong kiến) đánh nhau với ta; nhờ ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức mạnh, nước Nam đã thắng. Chinh chiến lúc đó thế là lại bắt đầu. Giặc biết rằng không khuất phục được ta bằng uy lực, đã dùng chiến tranh hao mòn. Trần Đế Quỹ đã lãnh đạo dân Nam đoạt được thắng lợi, sau thấy dân cùng kiệt, đói khát, máu đổ xương rơi. Ông biết rằng giặc chỉ muốn hại mình ông, và chúng bắt được ông rồi thì dân Nam sẽ được yên ổn. Vì vậy ông ra nộp mình; ông nộp mình để dân ông đỡ hao tổn sinh linh, xương máu. Bị cầm tù giải đi, ông nhảy xuống sông tự tử. Ông thà chết vinh chứ không sống nhục. Ngày nay, mỗi buổi mặt trời mọc lên lặn xuống, muôn nghìn ánh hào quang vàng óng quây trên dòng sông trong nước bạc long lanh, tạo nên đài kỷ niệm vĩnh cửu cho linh hồn bất diệt của con người chiến bại vĩ đại đó...
   
"Tiếp đó là Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân - người ở ngôi ngay trước mi. Chính những kẻ xưng xưng là tôn trọng phong tục, luật lệ nước ta đã đày ải ba vị và mai đây sẽ dùng mi làm món đồ rao hàng thuộc địa, cổ động đế quốc. Có thấy không, con! Chẳng thể bao giờ trong niên giám nước mi lại có một vua Nam nào chịu làm tôi tớ đến như mi, lại có một cuộc ngự giá tuần du nào thảm hại đến mức này. Trước đây, mi đã từng phạm tội báng bổ là bệ lên bàn thờ linh thiêng của ông vải hình ảnh ghê tởm của thằng da trắng ngái ngủ và bụng phệ nọ, nó sặc lên mùi tỏi, ớn mùi thây ma. Tại sao, ừ, tại sao mi lại làm thế? Nay mi lại sắp lẩn xa tôn miếu. Tay mi sẽ không thắp hương vào những tiết đầu xuân, đầu thu nữa. Mi sẽ không tự tay mở hương án dâng hoa quả đầu mùa và cúng cơm mới nữa. Vẫn hay, con ạ! rằng tất cả những cái ấy chẳng qua đều là nghi lễ cổ hủ ! nhưng mi cũng thừa biết rằng chỉ còn độc nghĩa vụ đó là mi còn làm được với tổ tiên và mi cũng chỉ còn độc cái uy tín đó mà thôi trước mắt thần dân.
   
"Giờ thì mi lại sắp làm tệ hại hơn nữa. Mi sắp ca ngợi công đức của những đứa bóc lột và hiếp đáp dân mi. Mi sắp phô trương sự thịnh vượng của đất nước mi, cái thịnh vượng được sắp đặt đâu ra đấy trong trí tưởng tượng quá giàu của bọn bóc lột. Mi sắp tâng bốc công ơn vô ngần và tưởng tượng của nền văn minh đã thâm nhập sơn hà xã tắc của mi bằng mũi nhọn của lưỡi lê và bằng họng súng ca-nông.
   
"Ôi, nhìn, hãy nhìn nào, đứa con thảm thương kia ơi! Hãy nhìn quanh mi! Thấy chăng Trung Hoa đang thức tỉnh, Nhật Bản đang duy tân...? Thấy chăng toàn cầu đang tiến, chỉ có dân mi là, nhờ mi và lũ quan thượng của mi, cứ phải chìm ngập mãi trong vũng lầy dốt nát và tôi đòi khốn nạn?
   
"Hãy nhìn Triều Tiên, Ai Cập và ấn Độ, tất cả các nước đó đều đang đứng lên đòi hỏi quyền lợi, công lý và tự do!
   
"Chính giữa lúc đó thì mi... Im... Nghe kìa! Nghe thấy chăng... Nghe thấy chăng những tiếng kêu gào...? A! Người ta đến kia kìa, đông quá, tất cả những người dân nước Nam đã bị thiệt mạng cho cuộc chiến tranh ở châu Âu. Người ta đến đòi những gì mà bọn quan thầy mi đã cùng mi hứa hẹn với người ta, anh em người ta. Trả lời người ta đi nào! A! Người ta giận dữ, người ta bỏ đi.
   
"Bây giờ thì người ta quay lưng đi rồi, người ta đang đi đến phía đằng kia. Có thấy người ta không? Đằng kia ấy, nơi mặt trời đang mọc huy hoàng khôn xiết, nơi tung bay kiêu hãnh lá cờ Nhân đạo và Lao động. Đấy! Chính đấy là nơi yên nghỉ tâm linh những người đã khuất, là tương lai của dân tộc mà mi đã phụng sự chẳng ra gì!
   
"Gà sắp gáy sáng. Sao Bắc đẩu tiến ngang trời. Nhạc tiên đang giục giã ta. Thôi, chào!".
   
Mồ hôi nhớp nháp đẫm trán vị chúa thượng đang ngủ. Ngài muốn kêu lên. Nhưng không kêu được. Lưỡi ngài líu lại vì sợ.
   
Một quan hoạn bước vào, khom khom cái lưng ba lần, rồi the thé cái giọng đàn bà:
   
- Ngai dưới ! Đã có lệnh lên đường của Tòa Khâm truyền sang rồi đấy ạ!

NGUYỄN ÁI QUỐC
Báo L'Humanité, ngày 24-6-1922.

NHỮNG KẺ ĐI KHAI HÓA


Dưới đầu đề "Bọn kẻ cướp ở thuộc địa", đồng chí Víchto Mêrích đã thuật lại cho chúng ta nghe sự độc ác không thể tưởng tượng được của một viên quan cai trị thuộc địa nọ đã đổ nhựa cao su vào bộ phận sinh dục của một người phụ nữ da đen khốn khổ. Sau đó, hắn bắt chị phải đội một tảng đá lớn đứng phơi nắng cho đến chết.
   
Tên công chức dâm bạo đó hiện đang tiếp tục những thành tích của hắn trong một tỉnh khác với chức vị cũ.
   
Khốn thay, những việc bỉ ổi như vậy lại không hiếm gì ở cái nơi mà báo chí của các nhà cầm quyền thường gọi là "nước Pháp hải ngoại".
   
Hồi tháng 3 năm 1922, một nhân viên nhà đoan Bà Rịa (Nam Kỳ) đã đánh gần chết một phụ nữ An Nam làm nghề gánh muối, lấy cớ rằng người này đã làm mất giấc ngủ trưa của hắn, vì làm ồn ào ngoài hiên nhà hắn ở.
   
Hay ho nữa là người đàn bà này còn bị doạ đuổi khỏi nơi làm việc nếu bà thưa kiện gì.
   
Hồi tháng 4, một nhân viên nhà đoan khác đến thay cũng thật xứng đáng với tên trước về những hành động tàn ác của hắn.
   
Một bà cụ người An Nam, cũng làm nghề gánh muối, vì bị khấu lương nên cãi nhau với mụ cai. Mụ cai đến thưa với viên đoan. Viên này chẳng xét xử gì cả, tát bà cụ thợ muối hai cái thật mạnh và khi bà cụ già đáng thương cúi xuống nhặt nón, thì nhà khai hoá ấy, chưa vừa lòng với trận đòn mà hắn vừa trừng phạt bà cụ, liền đá một cái rất mạnh vào bụng bà cụ khiến cho máu ộc ngay ra lênh láng.
   
Khi bà cụ người An Nam đáng thương bị ngã quay xuống đất, đáng lẽ phải cấp cứu cho bà, thì người cộng tác viên của ông Xarô ấy lại cho gọi lý trưởng đến và ra lệnh cho lý trưởng đem người bị thương đi nơi khác. Lý trưởng từ chối không làm. Viên đoan liền cho gọi chồng người bị nạn đến, - ông này bị mù, - ra lệnh bắt ông phải đem vợ đi. Hiện nay, bà cụ già khốn khổ đó đang nằm nhà thương.
   
Bạn có muốn đánh cuộc rằng hai ông đoan của chúng ta ở Nam Kỳ, cũng như bạn đồng nghiệp của họ là vị quan cai trị nọ ở châu Phi, có bị làm rầy rà gì không ? Họ hẳn đã được thăng chức nữa kia đấy.

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 4, ngày 1-7-1922.

THÙ GHÉT CHỦNG TỘC


Vì nói đến đấu tranh giai cấp và quyền bình đẳng giữa con người mà đồng chí Ludông của chúng ta đã bị kết án là đã tuyên truyền thù ghét chủng tộc. Vậy ta hãy xem tình yêu thương giữa các chủng tộc đã được quan niệm và thực hiện ở Đông Dương như thế nào trong thời gian gần đây.
   
Hôm nay, chúng ta sẽ không nói đến tội ác của chính quyền thực dân là dùng rượu và thuốc phiện để đầu độc quần chúng và làm cho họ ngu muội đi. Việc ấy các đồng chí chúng ta trong đảng đoàn nghị sĩ tất sẽ có ngày bàn đến.
   
Mọi người đều biết rõ những thành tích lớn lao của tên quan cai trị sát nhân Đáclơ. Tuy nhiên đâu có phải chỉ mình hắn mới có những thủ đoạn tàn ác đối với người bản xứ như thế.
   
Một gã Puốcxinhông nào đó, đã hùng hổ nhảy ra đánh một người An Nam chỉ vì người này dám tò mò và cả gan nhìn ngôi nhà của người Âu trong mấy giây đồng hồ. Hắn đánh anh và cuối cùng giết anh bằng một phát súng lục bắn vào đầu.
   
Một nhân viên sở hoả xa, đã dùng roi mây đánh một người lý trưởng Bắc Kỳ.
   
Ông Béc đấm vỡ sọ người lái xe cho ông ta.
   
Ông thầu khoán Brét, sau khi cho chó cắn một người An Nam đã trói tay người này lại, đá cho đến chết.
   
Ông Đépphi, chủ sở thuế đã giết chết người đầy tớ An Nam của ông ta bằng một cái đá hết sức mạnh vào mạng mỡ.
   
Ông Hăngri, thợ máy ở Hải Phòng, nghe ngoài phố có tiếng ồn ào; cửa nhà ông vừa mở thì một người đàn bà An Nam chạy xộc vào, sau lưng có một người đàn ông đuổi theo. Hăngri tưởng là một người bản xứ đang đuổi một Con gái, liền vớ lấy khẩu súng săn nổ một phát. Người đàn ông ngã vật xuống chết ngay. Đó là một người Âu. Hỏi thì Hăngri trả lời: "Tôi tưởng đây là một thằng bản xứ".
   
Một người Pháp buộc ngựa của mình vào một cái chuồng trong đó đã có sẵn con ngựa cái của một người bản xứ. Con ngựa đực nhảy chồm lên, làm cho người Pháp tức điên ruột. Ông ta đánh người bản xứ hộc cả máu mồm, máu mũi, rồi đem trói lại treo lên cầu thang.
   
Một nhà truyền giáo (Vâng! một vị linh mục nhân từ) nghi một học sinh trường thầy dòng người bản xứ ăn cắp của mình 1.000 đồng, ông ta trói người học sinh này lại, treo lên xà nhà, tra khảo. Người học sinh đáng thương ấy ngất đi. Họ hạ anh xuống. Khi anh hồi tỉnh, họ lại treo lên tra khảo. Anh đã gần chết. Có lẽ hôm nay thì chết rồi.
Vân vân và vân vân.
   
Toà án có trừng phạt những tên đó, những con người đi khai hoá đó hay không ?
   
Có tên thì trắng án, có tên thì không ai đụng đến lông chân. Sự tình là như vậy. ấy thế mà bây giờ thì:
   
- Bị cáo Ludông, đến lượt anh nói đi!

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 4, ngày 1-7-1922.


CON NGƯỜI BIẾT MÙI HUN KHÓI


Xin tặng Nahông, người đã bị quân phiệt thực dân ám hại, bài ký này.
   
"Chính cuộc chinh phục hệ thống thuộc địa đã rèn luyện tài năng chiến đấu của số đông những nhà chỉ huy quân sự lớn của ta, những con người đã đưa ta đến chiến thắng, đã được dư luận Pháp ca ngợi vinh quang và chiến công ngay khi mang lá cờ nước ta đến dưới những bầu trời châu Phi hay châu á".
   
Anbe Xarô Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Haútxa, tháng 1 năm 1998.
Thành phố Haútxa cờ xí tưng bừng. Tưởng đâu như một vị chúa xuân đã gõ cây đũa thần lên gỗ ván khô khốc ở các bao lơn và các cửa sổ, làm mọc ra muôn vàn tấm lá đỏ phấp phới yêu kiều trước gió. Đây là lễ kỷ niệm lần thứ năm mươi ngày thành lập Cộng hoà liên hiệp Phi. Chưa bao giờ dân chúng lại tham gia với mức độ ấy những hội hè loại này. Từ sáng sớm, các đường phố, các quảng trường y như một dòng sông người. Từng đoàn học sinh, giương cờ đi đầu, vừa diễu qua các phố vừa hát Quốc tế ca, được dân chúng vỗ tay hoan nghênh. Trên quảng trường Xôviết, một cụ già hô hào đám đông. Đó là cố Kimengô, mệnh danh là Con người biết mùi hun khói.
Cụ Kimengô, tuổi đã chín mươi, là một cựu chiến sĩ của quân đội cách mạng, một trong những người sáng lập Cộng hoà da đen. Được phú bẩm một trí thông minh đặc biệt sắc sảo, lại am hiểu tường tận mọi sự kiện chính trị và xã hội của thời đại, cụ Kimengô không những đã ra sức thức tỉnh anh em cùng màu da ra khỏi giấc ngủ mê say của con người nô lệ, mà còn cố gắng phá tan mọi thành kiến dân tộc và chủng tộc, tập hợp những người bị bóc lột thuộc các màu da trong cuộc đấu tranh chung. Cụ đã thành công. Kimengô là một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi. Mái tóc cụ bạc phơ như tuyết khuôn rực rỡ bộ mặt màu mun. Đôi mắt cụ hiền dịu và nhìn sâu thẳm. Miệng cụ luôn tươi cười, dù trước những nguy nan nghiêm trọng nhất hay trong những giờ phút đen tối nhất. Từ toàn bộ con người cụ toát ra nhân từ và cao quý. Cụ đáng tôn kính và được tôn kính.
   
Chúng tôi đến nơi thì cụ đã nói được nửa chừng, và đây là những lời mà chúng tôi nghe được:
   
"... Có những từ ngữ mà người già các bác trước kia thường nghe thường nói, thì nay không còn trong từ ngữ của các cháu nữa. Và như thế là tốt. Bây giờ các bác nói đến toà án, cảnh sát, quân đội, nhà tù, thuế khoá, thì các cháu chẳng mấy người hiểu những cái đó là cái gì.
   
"Thời bác thì nước Cộng hoà của chúng ta là thuộc địa Pháp. Trong nước, có người giàu và người nghèo. Người giàu là những kẻ hưởng tất cả, tuy gì cũng chẳng làm. Người nghèo là những kẻ gì cũng làm, mà chẳng được hưởng gì cả. Người nghèo phải chịu chết chóc cho người giàu khi nào bọn này bất hoà với nhau: cái đó gọi là thuế máu. Người nghèo làm ra được cái gì đều phải nộp cho người giàu: cái đó gọi là thuế tiền.
   
"Vậy nhé, bọn tư bản da trắng lấy nước ta làm thuộc địa xong, nó bắt các bác phải nộp các thứ thuế, mặc dầu các bác nào có của nả gì đâu. Nộp thì không có gì để nộp; để khỏi bị hành hạ, các bác phải bỏ trốn vào rừng. Chúng nó đem chó và đem súng đuổi theo, các bác đành phải ẩn vào một cái hang, ngày nay gọi là hang Tuẫn nạn.
   
"Bọn bác hơn hai trăm mạng, đàn ông có, đàn bà có, trẻ em có. Cứ tưởng rằng như thế là tạm yên thân, nên mặc dầu phải chịu ẩm, chịu tối, chịu đói, cực lắm, các bác có ý định cứ nán lại đó càng lâu càng hay, vì biết rằng bọn nó vẫn rình ở ngoài hang với súng ống. Hang tối như bưng ngày cũng như đêm, bác chẳng biết ở trong đó bao lâu.
   
"Chẳng trông thấy gì hết, chẳng nghe thấy gì hết, trừ tiếng chó sủa dữ dội, xa xăm, nhắc nhở rằng tình thế vẫn hiểm nghèo.
   
"Một ngày nọ, nói đúng hơn là một đêm nọ, các bác ngửi thấy có cái mùi khét lẹt tràn vào chỗ náu trong lòng đất. Mùi khét nặng lên nhanh và trở thành không thể chịu nổi. Gì thế? Chẳng ai biết... Trẻ nhỏ thì khóc, đàn bà thì la, đàn ông thì chửi. Hoảng loạn! Chạy đi ư? Nhưng chạy đâu chứ? Khủng khiếp quá! Tiếng răng lập cập, tiếng thét xé tai, tiếng nấc, tiếng thân người đổ xuống, tiếng khóc điên rồ, làm cho cái xó tối ám khói đó hệt như là một địa ngục.
   
"Bấy giờ bác ở tận cuối hang. Bác theo bản năng nhắm mắt, ngậm miệng, áp mặt vào vách hang. Như thế cảm thấy dễ thở hơn và ngủ đi lúc nào không biết. Tỉnh dậy thì thấy có tia sáng chiếu chếch vào mặt, đấy là một kẽ hở qua đất, nhờ đó mà bác thở được và thoát chết. Bác nhằm đào một lối ra phía đó, nhưng chỉ mệt xác vô ích. Bác bèn quyết định thôi đành liều mạng cứ phía cửa hang mà ra. Quờ quạng và dẫm qua hai trăm xác chết hun mới trở lại được với khoảng trời tự do.
   
"Bác ăn cỏ, ăn rễ cây, đi lang thang hết làng này sang làng nọ; cuối cùng thì được bố của đồng chí người da trắng này đây thu nhận về nuôi như con. Ông đã dạy dỗ bác theo những nguyên tắc của tình hữu ái và của chủ nghĩa cộng sản; ông cũng đã cho bác biết tên thằng da trắng vì muốn thu thuế mà đã hun các bác chết ngạt một cách man rợ như vậy.
   
"Thằng hun khói, tên nó là Bruye, là đại diện của nước Pháp và là công sứ ở Haútxa".

Nguyễn Ái Quốc

Báo L'Humanité,ngày 20-7-1922.



THƯ NGỎ GỬI ÔNG ANBE XARÔ, BỘ TRƯỞNG BỘ THUỘC ĐỊA


Thưa ngài,
   
Chúng tôi hoàn toàn hiểu rõ rằng, đối với dân bản xứ ở thuộc địa nói chung và đối với dân An Nam nói riêng, lòng thương yêu của Ngài thật là bao la rộng rãi.
   
Dưới quyền cai trị của Ngài, dân An Nam đã được hưởng phồn vinh thật sự và hạnh phúc thật sự, hạnh phúc được thấy nhan nhản khắp trong nước, những ty rượu và ty thuốc phiện, những thứ đó song song với những sự bắn giết hàng loạt, nhà tù, nền dân chủ và tất cả bộ máy tinh vi của nền văn minh hiện đại, đã làm cho người An Nam tiến bộ nhất châu á và sung sướng nhất trần đời.
   
Hành động nhân ái ấy đủ để chúng tôi không cần nhắc lại tất cả những hành động khác như: bắt lính và bắt mua công trái, đàn áp đẫm máu, truất ngôi và đầy biệt xứ một ông vua, xâm phạm và làm ô uế những nơi linh thiêng, v.v..
   
Thật đúng như câu thơ chữ Hán đã tả: Gió âu yếm thổi chiều quạt phẩy, mưa nghĩa nhân đón vết xe lăn26. Được nắm quyền tối cao cai quản các thuộc địa, danh vọng của Ngài càng cao bao nhiêu thì sự quan tâm đặc biệt của Ngài đối với những người Đông Dương càng tăng lên bấy nhiêu. Ngài đã cho thiết lập ngay ở Pari một cơ quan đặc trách để theo dõi những người bản xứ cư trú trên đất Pháp, đặc biệt là theo dõi những người Đông Dương, như một tờ báo thuộc địa đã nói rõ.
   
Nhưng chỉ "theo dõi" không thôi thì thấy hình như chưa xứng với tấm lòng thương yêu của Ngài như bậc cha mẹ, nên Ngài còn muốn gia ơn hơn nữa. Vì vậy mà gần đây, Ngài đã ban cho mỗi người An Nam - người An Nam yêu quý, như ngài thường nói - nhiều người "hầu cận" đặc biệt. Tuy những người này còn ấu trĩ trong nghệ thuật của Séclốc Hôm1), nhưng họ cũng đã tỏ ra rất tận tụy và rất đáng yêu. Chúng tôi chỉ còn biết khen ngợi họ và ca tụng người cầm đầu họ là Ngài.
   
Chúng tôi thành thật lấy làm cảm động được Ngài dành cho vinh dự đó, và chúng tôi có lẽ sẽ tiếp nhận vinh dự đó với tấm lòng biết ơn sâu sắc nhất, nếu vinh dự ấy đối với chúng tôi xét ra không phải là có hơi thừa, và không gây ra những sự ghen tị và suy bì.
   
Trong lúc Nghị viện đang tìm cách tiết kiệm chi tiêu, hạn chế số nhân viên các cơ quan hành chính; trong lúc ngân sách bị thâm hụt nhiều, nông nghiệp và công nghiệp thiếu nhân công; trong lúc phải hạn chế tiền lương của người lao động và trong lúc việc phục hồi dân số đòi hỏi phải sử dụng mọi năng lực vào việc sản xuất, - trong lúc như thế, chúng tôi lại cứ tiếp nhận những đặc ân riêng cho cá nhân mình, gây ra lãng phí sức lực của những người công dân bị đày vào cảnh vô công rồi nghề như những người "hầu cận" nói trên, và gây ra sự tiêu phí tiền bạc mà giai cấp vô sản đã đổ mồ hôi sôi nước mắt mới kiếm ra được, - thì quả là không yêu nước tý nào.
   
Vì vậy, tuy rằng vẫn là kẻ đội ơn Ngài, chúng tôi cũng trân trọng xin Ngài miễn cho cái đặc ân ấy, đối với chúng tôi thì nó quý hoá thật, nhưng đối với nước nhà thì lại là quá lãng phí.
   
Nếu Ngài nhất thiết cần biết hằng ngày chúng tôi làm gì thì rất dễ thôi: cứ mỗi buổi sáng chúng tôi sẽ phát hành một bản tin về sự đi lại của chúng tôi và Ngài chỉ việc đọc là biết.
   
Vả lại, thời khoá biểu của chúng tôi rất giản đơn và hầu như cố định.
       
Sáng: Từ 8 đến 12 giờ ở xưởng máy.
       
Chiều: ở phòng báo chí (dĩ nhiên là báo của phái tả), hoặc ở thư viện.
       
Tối: ở nhà riêng, hoặc dự những buổi nói chuyện bổ ích.
       
Chủ nhật và ngày lễ: Thăm nhà bảo tàng hay những nơi bổ ích khác.
   
Chỉ có thế thôi!
   
Hy vọng rằng cách này vừa tiện, vừa hợp lý có thể làm Ngài hài lòng được, chúng tôi xin kính gửi Ngài, v.v..

Nguyễn Ái Quốc
Báo L'Humanité, ngày 25-7-1922.

KHAI HÓA GIẾT NGƯỜI


Cũng trên mục diễn đàn này, gần đây chúng tôi đã nêu lên một loạt những vụ giết người mà thủ phạm là những kẻ đi "khai hóa" của chúng ta, nhưng vẫn không bị trừng phạt. Than ôi! quyển sổ đoạn trường ấy cứ mỗi ngày một dài thêm, thật là đau xót.
   
Lại mới đây thôi, một người An Nam, trạc 50 tuổi, làm công cho sở xe lửa Nam Kỳ đã 25 năm nay, bị một viên chức người da trắng giết. Sự việc như sau:
   
Anh Lê Văn Tài điều khiển bốn người An Nam khác làm việc dưới quyền mình. Phận sự của họ là đóng cầu mỗi khi có xe lửa đi qua và mở cầu cho tầu bè qua lại. Theo lệnh đã quy định thì phải đóng cầu 10 phút trước khi xe lửa đi qua.
   
Ngày 2 tháng 4, hồi 16 giờ 30, một người trong bọn họ mới đóng cầu và hạ tín hiệu xuống, vừa lúc một chiếc thuyền máy công đi đến, trên thuyền chở một viên chức xưởng đóng tàu của hải quân đi săn về. Chiếc thuyền máy kéo còi lên. Nhân viên người bản xứ liền ra đứng giữa cầu, phất cờ đỏ báo cho những người trên thuyền máy biết rằng xe lửa sắp chạy qua và do đó cầu đã đóng rồi. Và sau đây là câu chuyện đã xảy ra: Chiếc thuyền máy ghé sát vào trụ cầu. Người viên chức Pháp liền nhảy lên bờ và hầm hầm tiến về phía người An Nam. Anh này khôn ngoan, chạy trốn về phía nhà ông Tài là "xếp" của mình. Người viên chức kia đuổi theo, lấy đá ném anh ta. Nghe có tiếng ồn ào, Tài liền chạy ra đón vị đại diện của nền văn minh, viên này mắng ngay: "Đồ súc vật, tại sao mày không mở ra ?". Vốn không biết tiếng Pháp, Tài chỉ còn biết trả lời bằng cách trỏ vào cái tín hiệu đỏ. Cử chỉ đơn giản ấy làm cho ông cộng tác viên của Ngài Lông nổi xung lên. Không phân phải trái gì, ông ta nhảy xổ vào Tài và sau khi đã "khiền" cho một trận, còn đẩy anh vào một đống than hồng ở gần đó.
   
Người An Nam gác cầu ấy bị bỏng một cách rùng rợn, được chở đến nhà thương, và sau sáu hôm cực kỳ đau đớn anh đã chết tại nhà thương.
   
Người viên chức kia vẫn được vô sự không có gì phải lo lắng cả. Trong lúc ở Mácxây, người ta triển lãm cảnh phồn thịnh giả tạo27 của xứ Đông Dương thì ở An Nam đang có những người bị chết đói. ở bên này, người ta ca tụng lòng trung thành, còn ở bên kia, người ta đang giết người! Như vậy nghĩa là thế nào hỡi Đấng chí tôn Khải Định và Cụ lớn Xarô ?


NGUYỄN ÁI QUỐC

T.B.- Trong khi tính mệnh của một người An Nam bị xem như thân con chó, không đáng giá một đồng trinh, thì Ngài Tổng thanh tra Rêna, bị sướt có một chút da ở cánh tay mà được lĩnh 120.000 phrăng tiền bồi thường. Ôi, bình đẳng! Bình đẳng quý hoá thay!

Báo Le Paria, số 5,ngày 1-8-1922.

PHỤ NỮ AN NAM VÀ SỰ ĐÔ HỘ CỦA PHÁP


Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó, đem ra đối xử với trẻ em và phụ nữ, lại càng bỉ ổi hơn nữa.
Thật là một sự mỉa mai đau đớn khi ta thấy rằng văn minh dưới nhiều hình thức khác nhau, như tự do, công lý, v.v. - được tượng trưng bằng hình ảnh một người đàn bà dịu hiền và được một hạng người nổi tiếng là hào hoa phong nhã ra sức điểm tô - lại đối xử một cách hết sức bỉ ổi với người đàn bà bằng xương bằng thịt và xúc phạm một cách vô liêm sỉ tới phong hoá, trinh tiết và đời sống của họ.
   
Thói dâm bạo ở thuộc địa là một hiện tượng phổ biến và tàn ác không thể nào tưởng tượng được. ở đây chúng tôi chỉ tạm nêu ra một vài sự việc mà những người vô tư đã chứng kiến và kể lại những điều tai nghe mắt thấy, để chị em phụ nữ phương Tây hiểu rõ giá trị của cái gọi là "sứ mạng khai hoá" mà bọn tư bản đã giành lấy độc quyền thi hành, đồng thời hiểu rõ nỗi đau khổ của chị em phụ nữ ở thuộc địa.
   
Một người ở thuộc địa kể lại rằng: "Khi bọn lính kéo đến, dân chúng chạy trốn cả, chỉ còn lại hai cụ già và hai phụ nữ, một thiếu nữ còn tân và một phụ nữ đang cho đứa con mới đẻ bú, tay dắt một em gái nhỏ lên tám. Bọn lính đòi tiền, rượu mạnh và thuốc phiện.
   
Không ai hiểu chúng nói gì, thế là chúng nổi giận lấy báng súng nện một cụ già ngất đi, rồi còn một cụ thì trong mấy giờ liền, hai tên trong bọn lính, khi kéo đến đã say bí tỉ, đem thiêu trong một đống củi cành khô làm trò vui với nhau. Trong khi đó, thì những tên khác hiếp hai phụ nữ và em gái nhỏ, chán rồi, chúng giết chết em bé. Lúc đó, người mẹ bồng đứa con kia trốn được, rồi từ trong một cái bụi cây cách đấy độ 100 mét, trông thấy người chị em mình đang bị hành hạ. Duyên cớ làm sao, chị chẳng biết, chị chỉ thấy người thiếu nữ bị đặt ngửa trên mặt đất, tay chân bị trói chặt, miệng bị bịt lại, còn một tên lính thì lấy lưỡi lê cứ từ từ, từng nhát một, chọc vào bụng chị, rồi lại chầm chậm rút ra. Sau đó, chúng chặt ngón tay người thiếu nữ đã chết để cướp lấy chiếc nhẫn và chặt cổ để cướp lấy chiếc vòng.
"Trên mảnh đất bằng phẳng trước kia là ruộng muối, ba cái xác chết nằm đó: em bé bị lột truồng, thiếu nữ bị mổ bụng, cánh tay trái cứng đờ giơ lên trời vô tình, bàn tay nắm chặt. Còn xác ông cụ già thì ghê gớm làm sao, cũng trần truồng như thế, nhưng vì bị thiêu cháy nên không nhận ra hình thù được nữa, mỡ chảy lênh láng đã đọng lại và da bụng thì bị phồng lên, chín vàng, óng ánh như da con lợn quay vậy".

(Còn tiếp)

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 5, ngày 1-8-1922.

"SỞ THÍCH ĐẶC BIỆT"


Từ khi đến Pari, Khải Định, Hoàng đế nước An Nam đã thành mục tiêu bao vây theo như thường lệ của một số bà buôn son bán phấn. Họ đã dâng lên Ngài Ngự nhiều bức thư nồng nàn tình tứ và nhiều tấm ảnh khêu gợi. Nhưng Khải Định vốn là bậc hiền triết, Ngài Ngự bèn truyền đem tất cả thư và ảnh ấy vứt vào sọt rác, và ai hỏi, Ngài Ngự cũng đều từ chối không trả lời gì hết.
   
Ông Anbe Xarô đã trả lời một mỹ nhân hỏi về việc đó như sau:
   
- Ấy, Hoàng thượng Ngài có những sở thích rất đặc biệt.
   
Bà này rất đỗi ngạc nhiên và muốn hỏi cặn kẽ thêm, nhưng ông Bộ trưởng Bộ Thuộc địa đã đánh trống lảng:
   
- Hoàng thượng Ngài chỉ thích đọc sách thôi.
   
Bà ta lại hỏi:
   
- Thế hiện giờ Hoàng thượng đang đọc gì?
   
Ông Anbe Xarô trả lời:
   
- Platông.
   
(Nghe Lỏm)
   
Bảo rằng Hoàng đế Khải Định là bậc hiền triết, điều đó ta không nghi ngờ gì cả. Nhưng hiền triết thì cũng không phải là không cần lễ độ, và chúng tôi mạn phép kính tâu Hoàng thượng rằng cử chỉ của Ngài dù uy nghi đến đâu chăng nữa nhưng vẫn hoàn toàn thiếu lịch sự. Riêng chỉ nghĩ rằng những bà lịch sự kia, vì ham chuộng những cái của vua chúa mà bị khinh miệt một cách phũ phàng như thế ắt không khỏi sẽ trút tất cả mối căm thù ghê gớm của các bà vào những đề tài về Hoàng thượng, là người ta cũng đủ run lên rồi. Quan lớn Bộ trưởng vốn có tài ăn nói. Ông lại rất am hiểu chữ nghĩa của nước ông. Vậy mà câu ông trả lời mỹ nhân lại rất mập mờ. Ông dùng chữ "sở thích đặc biệt", thật ra là muốn nói gì nhỉ? Có phải ngẫu nhiên mà, mặc dầu vừa mới chân ướt chân ráo tới cái thành phố ánh sáng này, Đức Hoàng thượng rất ư thông thái và đầy tâm hồn nghệ sĩ đã làm quen được ngay với một nghệ sĩ nổi tiếng và một thi sĩ lừng danh rồi chăng? Đặt câu hỏi như thế, chính là đã trả lời rồi đó. Sau khi mỹ nhân muốn hỏi cặn kẽ thêm, và sau khi quan lớn Bộ trưởng đánh trống lảng, thì cái câu nói mập mờ rất hùng biện kia vẫn còn tiếp tục thêm rằng: tuy trong chữ Théétète(1) có chữ Thé (như Víchto Huygô từng nói), chúng ta vẫn không tin rằng Hoàng thượng lại hạ cố đến những tác phẩm của người thầy học của Arixtốt, vì Hoàng thượng vẫn luôn luôn phải có người thông ngôn mới hiểu được tiếng Pháp (và cả tiếng Hy Lạp nữa) kia mà. Cho nên khi ông Bộ trưởng nói rằng Hoàng thượng hiện đang đọc Platông là ông chưa nói hết cái chữ mà ông định nói: Chắc là ông định nói chữ Platô...ních(2) đấy mà.
Amicus Plato, sed magis amica veritass(3)
   
Và chúng tôi xin trả lời:
   
"Ông bạn Platông ơi, Hoàng thượng chỉ thích xem thôi".


NGUYỄN ÁI QUỐC
Báo Le Paria, số 5, ngày 1-8-1922.

1) Théétète, tên một bài đối thoại của Platông bàn về tri thức và cơ sở của triết học, viết vào khoảng năm 369 trước công nguyên. Tác giả viết câu này để nói ý rằng chữ Platông ở câu sau cũng còn dùng dở vần.
2) Platonique nghĩa đen là theo học thuyết Platông: thuần tuý lý tưởng. Nghĩa bóng là vô hiệu lực. ở đây, muốn ám chỉ bệnh liệt dương của Khải Định.
3) Nghĩa là Tôi rất quý Platông nhưng đối với tôi, sự thật còn quý hơn nhiều. Đây là một câu châm ngôn rút trong tác phẩm của Amôniuyt, nhan đề là Cuộc đời của Arixtốt.


THƯ GỬI KHẢI ĐỊNH


Kính gửi: Hoàng thượng Khải Định
   
An Nam Hoàng đế
   
Vĩnh biệt V.V.C.

   
Ngài đã đến - hay nói cho đúng hơn là người ta đã đưa Ngài đến, coi như một món hàng thuộc địa và có thể trưng bày ở Hội chợ. Người ta định đem Ngài bày ít nhất là vài ba tháng trong tủ kính xinh xẻo, nhưng mỏng manh và có thể bị huỷ hoại. Thế mà Ngài lại ra đi, hay nói cho đúng hơn, là người ta đã buộc Ngài phải cuốn gói ra đi. Được ăn ở sang trọng tại phố Uđinô, được ru êm ấm trong tay của điện hạ Xarô - ông Hoàng An Nam và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa- như trên tay một người cha, thế mà Ngài vẫn kêu là còn rét. Nếu tất cả đồng bào của Ngài - những người đã từng dấn thân trong bùn lầy, sương tuyết và dưới làn mưa đạn trên chiến trường ở nước Pháp, những người đã và đang bị đày đoạ dưới tiết trời rét như cắt da cắt thịt, đã và đang bị đe doạ bởi những kẻ mà họ tấn công, - nếu tất cả những người đó đều nói như Ngài đã vội ch...uồn ngay, chớ chẳng chịu liều mạng - cố nhiên là liều cái mạng không đế vương bằng, nhưng dẫu sao cũng quý báu - thì Ngài có thể lấy đâu ra được để tỏ cái lòng trung quân dễ kiếm và lòng trung thành rẻ rúng để làm vừa ý cái ông chủ của Ngài, như Ngài đã từng tỏ ra ở Nôgiăng hay ở những nơi khác?
   
Ngoài vấn đề tình cảm ra, và ngoài mấy con ngựa cái ở trường đua Lôngsăng cùng những vẻ đẹp cổ đại ở nhà hát Ôpera ra thì Ngài đã thấy gì trong suốt thời gian "tham quan" của Ngài ở cái nước Pháp lạc thú này?
   
Ngài có thấy được nguyện vọng thiết tha mong muốn công lý, tự do và lao động của quần chúng rộng rãi của dân tộc Pháp này không? Ngài có thấy được tình cảm cao cả yêu chuộng hoà bình và hữu nghị đang làm rung động trái tim của quần chúng đó, - số quần chúng mà, qua những cuộc cách mạng giải phóng, giờ đây đã giải phóng mình khỏi ách của bọn vua chúa, để trở thành kẻ tự mình làm chủ mình đó không?
   
Qua những lời tán tụng hèn hạ trong những bài diễn văn của mấy nhà đương cục và trong những bài báo được trợ cấp tiền của mấy tờ báo "lương thiện" ra, Ngài còn có nghe thấy gì nữa không? Ngài có được nghe người ta nói đến Paxtơ hay Vônte, Víchto Huygô hay Annatôn Phrăngxơ không? Ngài có được nghe người ta nói đến bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền không? Ngài có được nghe người ta kể lại lịch sử của cuộc cách mạng bất diệt không?
   
Sau những xúc động mạnh mẽ khi xem những đại bác, xe tăng hoà bình diễu qua, thì trong cái đầu chít khăn của Ngài đã vội chớm nở nỗi nhớ nhà, thế là Ngài vội vã cuốn gói ra đi! Ngày mai đây, Ngài sẽ xuống tàu, và Ngài sẽ lại trông thấy những biển cả ven theo đất nước của người Ai Cập và người ấn Độ. Hoà lẫn với tiếng sóng gầm vang, những tiếng thét dữ dội của nhân dân bị áp bức ở các nước này, cũng như của nhân dân nước Ngài, sẽ xé tan bầu không khí yên tĩnh bên tai Ngài. Và nếu như Ngài có đôi chút óc tưởng tượng, Ngài sẽ thấy rằng ý chí của nhân dân - một ý chí đã được hun đúc trong nghèo đói và khổ cực - một ý chí còn mạnh hơn và dẻo dai hơn sóng cả, cuối cùng sẽ khoét hổng dần và đánh bật cái tảng đá bề ngoài có vẻ vững chắc là sự áp bức và bóc lột kia đi. Có thể Ngài sẽ tự nhủ rằng cái mà Ngài trông thấy đấy là một chút của nước Pháp đó Vĩnh biệt... người đồng hương! Một khi mà những đợt sóng biển vô tình đã lấp kín vết đi của con tàu Ngài ngồi thì nước Pháp sẽ quên Ngài, cũng như Ngài sẽ không còn nhớ chút gì về những người Pháp nữa.
   
Để giữ kỷ niệm của một nền văn minh hiện đại và lớn lao, Ngài mang theo về cung điện của Ngài một chiếc dương cầm, vài cái nhẫn và cả mấy chiếc bật lửa mà Ngài đã đổi được bằng chút ít uy tín mà Ngài để mất mát đi trong trái tim nhân dân của Ngài. Và khi Ngài lại trở về sống giữa đám phi tần và nội thị của Ngài, giữa những sọt giấy lộn và tẩu thuốc phiện của Ngài, thì một vài tên ký lục già sẽ thêu dệt thay Ngài và hộ Ngài để gửi cho nước Pháp mà Ngài không hề hiểu biết một vài câu nịnh hót hay một vài vần thơ lủng củng, dưới đó, những ngón tay đầy nhẫn của Ngài sẽ cầm bút ký cái chữ ký của một vị đế vương là nghệ sĩ và văn nhân (!).
   
Thế là cái ý nguyện bình sinh lớn của Ngài đã được thoả mãn. Và như vậy là hạnh phúc và ấm no của nhân dân An Nam cũng sẽ được xây dựng và củng cố rồi đấy!

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Journal du Peuple, ngày 9-8-1922.

DƯỚI SỰ BẢO HỘ CỦA...


Khi làm công sứ tỉnh Thái Nguyên (Bắc Kỳ), vì mục đích tống tiền, Đáclơ đã bắt bớ, giam cầm và kết án vô cớ người bản xứ. Hắn đã giáng những cú đấm và những trận đòn roi vào những người bản xứ bị gọi đi lính "tình nguyện". Hắn đối xử tàn ác với những người lính lệ bản xứ, nắm tóc họ lôi xềnh xệch, đập đầu họ vào tường nhà của hắn.
   
Hắn đâm lưỡi kiếm vào những người tù khiến họ bất tỉnh nhân sự.
   
Viên công sứ Đáclơ đánh một người bản xứ bằng roi sắt và làm gãy hai ngón tay của người này. Hắn dùng roi đánh túi bụi một viên đội người bản xứ. Hắn chôn đến tận cổ những người lính lệ bản xứ nào không làm vừa lòng và chỉ cho đào họ lên khi họ đã gần chết. Hắn dùng gậy đâm lòi mắt một viên đội người bản xứ khác.
Cuối cùng cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đã bùng nổ chống lại sự tàn ác của hắn và máu người bản xứ lẫn máu người Pháp đã đổ. Bao nhiêu máu đã chảy, bao nhiêu nhà đã bị phá, và bao nhiêu người vô tội đã bị chặt đầu.
   
Để thưởng những công trạng đáng khen ấy của viên công sứ Đáclơ, người ta phong hắn chức chánh giám khảo các trường lớn ở Hà Nội và bổ nhiệm hắn làm đổng lý văn phòng của viên thống sứ Bắc Kỳ.
   
Báo L'Humanité và Hội Nhân quyền và Dân quyền đã phản đối.
   
Nếu viên sĩ quan Đức Phôn Sephen bị tù 20 năm khổ sai vì đã tàn sát người ở Rôngcơ thì viên công sứ Đáclơ đáng phải tù ít nhất là gấp ba lần 20 năm khổ sai vì tội ác của hắn.
   
Nhưng các bạn có biết số phận của hắn ta như thế nào không?
   
Hắn đã trở thành uỷ viên Hội đồng thành phố Sài Gòn, nghĩa là người cộng tác trực tiếp của các ngài Xarô và Utơrây và làm chủ vận mệnh những người nhà quê (1) ở Sài Gòn!
   
Hạnh phúc thay xứ Nam Kỳ!!


Nguyễn Ái Quốc

MỘT VẤN ĐỀ


Có thật người Pháp tên là C. phục vụ trong Sở mật thám của viên toàn quyền Đông Dương không ? Có thật cái tên C. ấy được phái đi "công cán" ở Phú Xuyên đã buộc những người An Nam ở đó phải gọi hắn là Quan lớn1), và đánh đập tàn nhẫn những ai chậm tuân theo lệnh hắn không? Có thật cũng chính tên C. ấy đã đánh người lính lệ không? ở cái thiên đường Đông Dương, người ta được phép và có thể làm bất cứ gì, có phải như thế không, Ngài toàn quyền Lông?

NGUYỄN ÁI QUỐC.
Báo L'Humanité, ngày 17-8-1922.

(1) Những chữ "nhà quê", "Quan lớn", "lính lệ" trong nguyên bản viết bằng tiếng Việt.

 

CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VÀ THANH NIÊN TRUNG QUỐC


Phong trào thanh niên xã hội chủ nghĩa mới bắt đầu ở Trung Quốc từ năm 1920. Nhưng từ đó và chỉ có từ đó thì những thanh niên mácxít, những thanh niên vô chính phủ chủ nghĩa, những nghiệp đoàn xã hội chủ nghĩa và những công đoàn mới gia nhập các hội liên hiệp. Và chỉ từ tháng 11 năm 1921, những thanh niên cộng sản mới thành lập được các tổ chức độc lập của họ. 5 nghìn thanh niên đã tập hợp dưới ngọn cờ búa liềm. Hồi tháng 5 năm 1922, họ triệu tập Đại hội toàn Trung Quốc. 16 diễn giả đã lên phát biểu trên diễn đàn Đại hội. Họ đã bầu ra một Ban chấp hành gồm 25 đại biểu, thay mặt cho 15 tổ chức, và 2 đại biểu thay mặt cho các thanh niên ở ngoài nước. Họ thông qua một bản điều lệ gồm 35 điểm.
   
Đại hội kêu gọi các công nhân và lao động toàn Trung Quốc, các sinh viên, các thanh niên nam nữ, tất cả những người có tư tưởng độc lập, các binh lính cũng như cảnh sát.
   
Cương lĩnh của tổ chức đó gồm có 4 phần sau đây:

A. Về chính trị
        1. Đấu tranh giai cấp.

        2. Quyền đầu phiếu.

        3. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do bãi công.

B. Về kinh tế
        1. Ngày lao động (6 giờ cho những thanh niên 18 tuổi trở xuống, 8 giờ cho những người đã đủ tuổi thanh niên).

         2. Tuần lễ nghỉ một ngày.

        3. Bỏ chế độ hợp đồng cá nhân ký giữa chủ và thợ.

         4. Bảo hộ lao động cho công nhân.

        5. Lao động ngang nhau thì trả lương ngang nhau.

C. Về giáo dục
        1. Giáo dục xã hội ở nhà nước: dùng các cuộc nói chuyện, các báo chí để tuyên truyền những tư tưởng cộng sản chủ nghĩa,

        2. Giáo dục chính trị bằng các cuộc nói chuyện, các sách báo, và các cuộc thảo luận về đấu tranh giai cấp.

D. Về việc giáo dục ở nhà trường
        Sửa đổi chương trình giáo dục, giáo dục phổ thông bắt buộc, v.v..
        Đại hội kết thúc bằng bài "Quốc tế ca".

Nguyễn Ái Quốc

T.B. Mãi khi tới Pari, chúng tôi mới nhận được số báo Tiền phong đầu tiên, viết bằng chữ Trung Quốc.

Báo L'Humanité, ngày 19-8-1922.
 

"CHỦ NGHĨA VIĐA" CÒN ĐANG TIẾP DIỄN


Hàng nghìn dân bản xứ bị cưỡng bức đẩy vào quân đội để bảo vệ những két bạc cho những kẻ bóc lột mình.
   
Chúng ta nhớ rằng, để buộc những người châu Phi thực hiện "nghĩa vụ của mình", người ta đã đốt nhà cướp của của họ và sau đó, những nạn nhân ấy bị bắt đi lính cho đội quân tiên phong của nền văn minh.
   
"Việc dạy dỗ" người bản xứ bằng những cú đá đít và đánh đập đã trở thành thói quen của những vị trứ danh của chúng ta.
   
Anh Nahông bất hạnh, "người bị giết hai lần" - lần đầu do đại uý Viđa và sau đó, là do bác sĩ, người được lệnh mổ xác và xác định nguyên nhân cái chết của anh, người đã không ngần ngại đánh cắp và giấu di hài của người chết đó để lấp liếm cho kẻ giết người, - than ôi, không phải là nạn nhân đầu tiên của chủ nghĩa quân phiệt thực dân! Một bạn đồng nghiệp của chúng tôi ở thuộc địa cho biết về một trường hợp bi thảm khác.
   
"Lần này, - anh ấy nói, - sự việc xảy ra ở Medông Carê, trong trung đoàn bộ binh thứ 5. Nạn nhân là một người lính trẻ tên là Terie, sinh quán ở Tênét, bị gọi ra lính năm 1921. Cái chết của anh ta thật là đặc biệt bi đát. Ngày mồng 5 tháng 8, Terie đến quân y trung đoàn xin thuốc tẩy. Anh nhận thuốc, hay nói cho đúng hơn, anh đã nhận cái mà anh cho là thuốc tẩy. Người lính uống thuốc và sau vài giờ thì chết một cách đau đớn khủng khiếp. Ông Terie, cha của anh ấy nhận được một bức điện ngắn ngủi về cái chết của con trai báo rằng lễ an táng sẽ được tổ chức vào ngày hôm sau. Điên dại vì đau đớn, người cha đáng thương vội vã đến Angiê, đến trung đoàn bộ binh thứ 5 đóng ở Medông Carê, và tại đây, ông biết xác đứa con trai duy nhất của ông đang ở trong quân y viện Maiô. Làm thế nào mà nó lại rơi vào đấy? Tại sao người ta lại đưa nó về Maiô? Phải chăng là vì cần phải tìm ra nguyên nhân thực sự của cái chết và mô tả nó như một cái chết đột ngột trên đường hành quân?
   
Tại quân y viện, khi người cha bất hạnh đề nghị được phép nhìn xác con trai thì người ta bảo ông ta hãy đợi. Sau đó, một vị thiếu tá xuất hiện và nói rằng việc phẫu nghiệm đã được tiến hành, nhưng nguyên nhân của cái chết không rõ và ông ta không thể cho phép người cha nhìn thấy xác người con trai của ông.
   
Theo những tin tức cuối cùng thì người ta biết rằng khi ông Terie yêu cầu viên chỉ huy trung đoàn bộ binh thứ 5 giải thích, ông ta được trả lời như sau: "Con trai của ông chết vì bị ngộ độc".

NGUYỄN ÁI QUỐC

 

PHÒNG KIỂM DUYỆT Ở ĐÔNG DƯƠNG


Báo L'Humanité, số ra ngày 13 tháng 9 có cho biết ở Mađagátxca vẫn còn chế độ kiểm duyệt thư từ nghiêm khắc, mặc dù bốn năm đã qua sau "cuộc chiến tranh vì công lý".
   
Đông Dương dưới quyền cai trị của viên toàn quyền Lông cũng chẳng khác gì Mađagátxca dưới sự thống trị của viên toàn quyền Gácbi: cũng những bất công, những việc lộng quyền, những vụ tai tiếng, những điều ô nhục như thế.
   
Chúng tôi được biết ở Sở Bưu chính và Sở Mật thám Đông Dương được lệnh giữ những gói và thư gửi cho báo Le Paria, xuất bản ở Pari, cũng như những thư tín do báo này gửi về Đông Dương.
   
Không phải là ngẫu nhiên mà hành vi lạm quyền này lại xảy ra đúng lúc viên quan cai trị xảo trá Bôđoanh và người trợ lý xuất sắc của hắn, con rể viên Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Anbe Xarô, đến Sài Gòn.
   
Ngoài ra, chúng ta vấp phải luật xâm phạm quyền bất khả xâm phạm thư riêng, và các viên cai trị tiếp tục giữ và lục soát thư riêng.
   
Như thế là người bản xứ bị giết chóc, cướp phá và không được hưởng những quyền sơ đẳng nhất: cả đến quyền thư tín! Sự vi phạm tự do cá nhân này chứng minh thêm chính sách đê tiện của bọn mật thám và chính sách lạm quyền đang thống trị ở những thuộc địa chúng ta.

Nguyễn Ái Quốc
Báo L'Humanité, ngày 28-9-1922.
 

ĐỒNG TÂM NHẤT TRÍ


 - Đi chợ nào đấy, anh Hai?
   
- Đi chợ Đông. Thế còn anh, anh Ba?
   
- Tôi cũng vậy. Thế có món hàng gì quý trong đôi thúng bảnh ấy thế?

- Vàng mã cúng ông vải ạ. Còn anh, anh có cái gì hay hay cho khách hàng nào?
   
- Trầu non để làm thơm và để nhuộm hồng miệng xinh của các chị chàng đẹp đấy.
   
Thế rồi hai anh bán hàng bặt im. Mặt trời đứng bóng chiếu ướt đẫm những bắp tay bắp chân lực lưỡng gần như để trần của hai anh. Bốn chiếc thúng nặng nề đung đưa ở đầu hai đòn gánh tre đặt ngang trên vai cháy nắng. Bụi cuốn lên quanh bước chân thoăn thoắt thành một thứ màn sương, làm cho mọi cử động của hai anh mờ ảo và nhìn xa lại còn có vẻ mỹ thuật là khác.
   
- Nghe này, người anh em! - Ba nói.
   
- Tai tôi đang lắng nghe lời anh dạy - Hai đáp.
   
- Hai ta cùng đi một chợ này, theo cùng một con đường này, lại có cùng một mục đích - là bán hết hàng, cùng một chí hướng - là làm ăn lương thiện kiếm miếng cơm. Phải thế không nào?
   
- Anh nói muôn nghìn lần đúng.
  
  - Thế có muốn hai ta kết làm anh em không ? Có muốn hai ta cùng nhau giao ước thắt tình hữu ái, và, ngay từ hôm nay, khuyên bảo lẫn nhau, thấy đây làm gì thì đó làm theo, mà đó đã bảo gì thì đây cũng làm y, nói tóm lại, là giữa hai ta có sự đồng tâm nhất trí.
   
- Anh dạy thật là chí lý, xin vâng theo.
   
- Thế thì, nào! chú mày, đường còn xa, chúng ta hãy thay phiên nhau hát, cho đôi cánh bổng trầm nén cơn mệt mỏi nhé!
   
- Ông anh hát trước đi!
           
Kon-mèo trèo lên cây cau
          
  Hỏi thăm Kon - chuột đi đâu vắng nhà?
           
Thưa rằng đi chợ đường xa
           
Mua đồ vật liệu giỗ cha Kon - mèo(1).
   
- Khôn ngoan hơn cường bạo, kẻ yếu thì chỉ có cách đó để tự vệ. Hai nói ra vẻ hiền triết lắm. Rồi, giọng u sầu, anh ngân nga:
           
Trông lên hòn núi Thiên thai
Thấy bầy chim quạ ăn xoài chín cây (2)
   
- Bài chú hát sao nghe buồn quá! Nhưng mà sự thật là thế.
  
Dẫu ta cũng cứ thấy cái giống chim chóc(3) biếng lười, nó chẳng chịu làm lụng gì cả, chuyên bòn của người khác làm ra mà ăn. Mà ơ này! Dòng sông có cát mịn, có làn nước trong veo, đây rồi! Nhớ nhúng đôi thúng xuống cho hàng thêm tươi tốt lúc qua sông.
   
Một lời đã hứa, Hai, anh bán đồ giấy, làm theo không chối cãi.
   
Qua khỏi con sông, anh bảo Ba:
- ánh sáng là mẹ của mọi sự tốt lành, mà mặt trời thì lại là cha của ánh sáng. Vậy, anh à! ta hãy phơi hàng một lát dưới ánh mặt trời tốt lành cho hàng lên màu, khách mua thêm hài lòng, ta bán được giá hời. Vừa nói, Hai vừa bày chỗ hàng bằng giấy bồi của mình lên ven đường nóng bỏng, rồi đến nghỉ dưới bóng cây.
   
Một lời đã hứa, Ba, anh bán trầu không, làm theo không chối cãi.

Nguyễn Ái Quốc
Báo L'Humanité, ngày 29-9-1922.

1) và 2) Nguyên bản tiếng Pháp có trình bày những bài hát dân gian này bằng tiếng Việt, kèm theo bản dịch sang tiếng Pháp, bản thân cách dịch đã ít nhiều giải thích ý nghĩa hàm ở trong. Dịch sát nghĩa và thoát, nhưng có thêm thắt đôi chữ giúp độc giả phương Tây lĩnh hội được dễ dàng và chính xác hơn ý tứ của những bài hát: Seigneur, Chat, vilains corbeaux, v.v. (gọi mèo bằng chúa, chỉ quạ là xấu xa, v.v..).
   
Tác giả lại còn nhân dịp giới thiệu nhẹ nhàng cả vài đặc điểm hình thức của thơ ca Việt, như viết bằng chữ cái cho nổi lên những vần bộ ba ở chân và ở lưng những câu lục bát đã sử dụng, v.v..
   
Tác giả thường dùng chữ K thay chữ C, với dụng ý cải tiến chữ quốc ngữ. Riêng ở đây, tác giả còn ý nhị muốn tránh mọi liên tưởng bất tiện trong tiếng Pháp, khi dùng có dụng ý chữ K để viết con, đồng thời dùng gạch nối giữa hai chữ "con mèo", "con chuột", để chỉ rõ con ở đây không có nghĩa riêng (con có nghĩa tục trong tiếng Pháp).
3) Trong tiếng Pháp, con chim (oiseau), đặc biệt con chim xấu xa (vilain oiseau), thường dùng để chỉ hạng người bỉ ổi.
 

NHÂN ĐẠO THỰC DÂN


Chuyện xảy ra ở Đông Dương và cũng chưa lâu hơn cái hồi có cuộc chiến tranh nhờ trời ban cho vì công lý và nhân quyền. Chính bằng những cách ấy mà "chính quyền Pháp đã có thể du nhập vào đầu óc nhân dân các nước cái khái niệm có một nền văn minh khác với nền văn minh Trung Quốc đã ngưng trệ từ mấy thế kỷ nay rồi". Chính bằng những cách ấy mà các toà án quân sự "đàn áp những phong trào nổi dậy để nêu gương nghiêm trị". Sau khi ca ngợi những cuộc đàn áp đẫm máu bằng những lời lẽ như vậy, bạn đồng nghiệp chúng tôi, tờ Sciences et Voyages đã thật thà thú nhận "ở bên đó thì cũng như ở trên đất Pháp, bọn bất lương vẫn còn quá đông, pháp lý vẫn cần phải nghiêm trị".
   
Ấy vậy mà chúng tôi cho đến bây giờ, vẫn ngây thơ tin rằng ở Pháp, chỉ có rặt những con người được khai hoá mà hễ ra khỏi nhà là tức khắc trở thành những con người đi khai hoá! Thêm nữa, theo cái lôgích đơn giản nhất, người ta không thể, cũng không nên cho người khác cái mà mình không có, nhất lại là cái văn minh.
   
Để xí xoá cái thói hèn mạt giết người ta để dạy cho họ "biết cách sống", bạn đồng nghiệp lớn của chúng tôi còn nói rằng, cần phải đánh vào dư luận cho nó giật mình kinh sợ...
   
Do vậy, thỉnh thoảng lại thấy xuất hiện cái kiểu hình pháp đặc biệt là các uỷ ban ngoại lệ hay toà án quân sự, mà bộ máy bi thảm và quyết đoán như vậy là cần thiết. Không có gì là hà khắc, là tàn bạo cả. Đúng thế. Chặt đầu người ta hoặc đem ra bắn thì có gì là hà khắc, là tàn bạo. Là hoàn toàn nhân từ mà. Nhưng nếu tụi "bôsơ" cũng ban bố những cách đối xử "nhân từ" như thế với anh em Andátxơ và Loren(1) của chúng ta, thì bạn sẽ nói sao nào, hỡi đồng nghiệp thân mến? Vốn thông thạo nhiều điều lý thú, bạn đồng nghiệp cho chúng ta biết nhiều việc, chẳng hạn cái thứ bậc lễ nghi và phức tạp trong các vụ giết người hợp pháp này: "lệ đóng cọc(2) và bắn 12 viên của tiểu đội hành hình chỉ dành riêng cho tội nhân là quân nhân hay kẻ cướp bị bắt có vũ khí trong tay. Khi ấy hầu như bao giờ cũng hành hình nhiều người một lúc và không hiếm trường hợp có bốn, sáu, thậm chí mười người gục xuống cùng một lúc dưới cùng một loạt đạn. Những tiểu đội hành hình có lính hỗn hợp, nghĩa là có sáu lính bản xứ dàn ở hàng đầu và sáu lính hoặc hiến binh người Pháp ở hàng sau". à, phải nhấn điểm cuối cùng này nữa là người ta đã dạy cho người bản xứ biết thế nào là Bác ái, cái đức quý đó vốn là nền tảng của mọi chế độ cộng hoà, được khắc bằng chữ lớn trên khắp các công trình kỷ niệm và trên tất cả các cửa ... nhà lao. Còn về cái định nghĩa thế nào là ăn cướp và những cuộc hành quyết tập thể thì xin xem mấy dòng sau của một sĩ quan thuộc địa, ông F.B., ông này về "học thức" có thể kém, nhưng chắc chắn nhiều chân tình và vô tư hơn: với cách giả định giống y như người Anh coi những người Bôe(3) kiên quyết kháng chiến là những tên phản loạn, ngoài vòng pháp luật, chúng ta coi những nhà ái quốc An Nam là những tên cướp.
   
"Người ta đã làm tất cả để vũ trang cho người An Nam giết hại nhau và xúi giục họ phản bội. Người ta tuyên bố các thôn xã phải chịu trách nhiệm về những chuyện rối ren xảy ra trong địa hạt mình. Họ phải dẫn đường cho quân đội ta, phải nộp mạng những người nổi dậy. Ai không tuân lệnh thì bị coi là kẻ phạm tội . Làng nào dung nạp một người yêu nước là bị xử án. Muốn điều tra, có một cách, bao giờ cũng cứ dùng mãi một cách đơn giản, là: chất vấn lý trưởng và hào mục. Ai không nói lập tức bị hành quyết. Một đám binh lính bảo an trong vòng hai tuần lễ, đã cho hành quyết 75 hào mục. Không một lúc nào người ta chịu phân biệt những nhà ái quốc chiến đấu tuyệt vọng cho độc lập của đất nước với bọn cặn bã chốn đô thành".

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 6 - 7, ngày 1-9 và 1-10-1922.

1) Alsace, Lorraine: Hai tỉnh ở đông bắc nước Pháp, năm 1870 khi Pháp thua trận, bị tách khỏi nước Pháp, nhập vào nước Đức. Năm 1918, Pháp thắng trận đã thu hồi lại.
2) Cọc đóng để trói người bị xử bắn.
3) Boers. Tiếng Hà Lan là nông dân. Tên chỉ những người Hà Lan ở châu Phi cùng với những người Đức - Pháp và các nước ở bán đảo Xcăngđinavơ di cư đến. Họ hình thành đa số dân da trắng ở Nam Phi, trong giao tiếp, coi tiếng Hà Lan và tiếng Anh ngang nhau. Trong những năm 1899-1902, người Boers nổi dậy chống chính quyền của Anh.


CHẾ ĐỘ NÔ LỆ "HIỆN ĐẠI HÓA"

Ở đồn điền của một chủ điền nọ, 6 người bản xứ đã bị bắt vì không nạp thuế.
   
Ra toà, những người bị cáo tuyên bố rằng, viên công sứ Đơla Rôsơ khi thuê họ, đã hứa:
        1. Trả một phần thuế cho họ,
        2. Miễn công dịch cho họ, và
        3. Trả cho họ 10 phrăng 30 ngày công.
   
Cần phải chú ý rằng, tên chủ đồn điền ấy đã thoả thuận với những người bản xứ: họ sẽ chỉ làm việc cho hắn mỗi tuần một ngày thôi. Và người bản xứ đã ký giao kèo làm trong 30 tuần. Như thế nghĩa là bảy tháng rưỡi mới làm được 10 phrăng! Để kiếm kế sinh nhai, người bản xứ buộc phải làm thuê cho những người Mangát bên cạnh. Hơn nữa, viên công sứ Đơla Rôsơ không những không nộp thuế cho họ như hắn đã hứa, và còn chiếm mất số tiền mà những người bản xứ này chuyển cho hắn để nộp thuế.
   
Nhà chức trách địa phương mở một cuộc điều tra. Nhưng Nghiệp đoàn nhà nông ở Makhanôrô (có thể là Đơla Rôsơ là hội viên Nghiệp đoàn này) biết việc ấy, đã đánh điện cho viên toàn quyền phản đối cảnh binh không kịp thời đến đồn điền của công sứ Đơla Rôsơ, và đã yêu cầu trừng phạt trưởng đồn cảnh binh về tội đã vạch trần hành vi phi pháp của người Pháp.
   
Để ỉm "câu chuyện" ấy đi, viên toàn quyền đã nhanh chóng dập tắt dư luận.
   
Những người lao động ở thuộc địa được bảo hộ như thế đấy và chính sách hợp tác được thực hiện như thế đấy.

Nguyễn Ái Quốc
Báo L'Humanité, ngày 26-10-1922. In trong sách: Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói chọn lọc, tiếng Nga, Nxb. Chính trị quốc gia, Mátxcơva, 1959, tr.31.
 

VỤ HÀNH HẠ AMĐUNI VÀ BEN BENKHIA


Trong cuộc chiến tranh vì công lý28 để bảo vệ chính nghĩa, văn minh, v.v., người ta đã động viên 10 vạn người Tuynidi đi lính, và 60% trong số đó đã không trở về nữa. Thời đó, người Tuynidi được vuốt ve và trìu mến. Người ta đã ca ngợi rất là thắm thiết tình anh em ruột thịt giữa Pháp và Tuynidi, "mối tình ruột thịt đã đời đời gắn chặt vào trong xương máu và quang vinh". Người ta đã thực hành cả một chế độ kiểm duyệt để cấm báo chí dù thế nào cũng không được làm phật ý người bản xứ.
   
Ngày nay, tình anh em đó đã thay hình đổi dạng. Nó không phải chỉ thể hiện bằng những cái vuốt ve hoặc những cử chỉ trìu mến mà thôi, nó còn thể hiện một cách hùng hồn hơn bằng những phát súng lục hoặc những trận roi da kia. Bằng chứng là những việc sau đây. Khi trông thấy ba người bản xứ cho cừu vào ăn cỏ ở vườn cây ôliu của mình, một vị thực dân Pháp liền bảo vợ đi lấy súng và đạn ra. Khi vợ mang súng đạn ra, thì vị đi khai hoá của chúng ta nấp vào một bụi cây, rồi đoàng! đoàng! đoàng! Ba phát bắn ra, thế là ba người bản xứ ngã xuống, bị thương gần chết.
   
Một vị thực dân Pháp khác có hai anh công nhân bản xứ giúp việc, tên là Amđuni và Ben Benkhia; hai anh này hình như đã có lấy trộm vài chùm nho. Vị thực dân kia liền cho gọi hai người bản xứ đến, rồi dùng roi gân bò mà vụt họ lia lịa cho đến lúc họ chết ngất. Khi hai người này tỉnh lại, quan lớn bảo hộ của chúng ta liền sai trói giật cánh khuỷu lại và treo họ lên. Dù hai người khốn khổ kia đã bất tỉnh nhân sự, thế mà cuộc hành hạ bỉ ổi đó vẫn cứ kéo dài đến bốn tiếng đồng hồ, mãi đến khi có một người ở cạnh nhà phản đối mới thôi.
   
Hai người đáng thương đó được khiêng đến nhà thương và mỗi người bị cắt mất một bàn tay, còn bàn tay nữa chẳng biết có thể cứu khỏi được không.
   
Tình r...u...ột thịt như thế đấy!
   
Chả là ông Luyxiêng Xanh đáng tôn kính, vì đã quá bận về việc trục xuất những người cộng sản và các nhà báo, nên không có thì giờ nghĩ đến đời sống của người bản xứ "được bảo hộ" của ông đấy mà.

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 8, ngày 1-11-1922.
 

SỰ CHĂM SÓC ÂN CẦN


Đây là một câu chuyện cũ, nó cũng cũ như chiến tranh. Trong khi hứa hẹn phẩm hàm cho những người Đông Dương tình nguyện(?) còn sống và vàng mã cho những người chết "vì mẫu quốc", viên Toàn quyền Đông Dương đã thốt ra những lời cảm động như sau:
   
Các anh gia nhập quân đội hàng loạt, không do dự rời quê cha đất tổ, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Là lính trận, các anh đi tòng quân để hy sinh xương máu của mình; là lính thợ, các anh cống hiến hai bàn tay của mình" (1919).
   
Lịch sử chép như vậy đó!
   
Nếu người An Nam tỏ ra vui mừng khi người ta bắt họ đi lính thì tại sao người ta lại xích tay họ lùa đến các địa điểm tập trung? Tạo sao trong khi chờ đợi đưa xuống tàu, người ta lại nhốt họ trong Trường trung học Sài Gòn, bên ngoài là lính cảnh vệ Pháp gác, lưỡi lê ở đầu súng, đạn đã lên nòng? Phải chăng những cuộc biểu tình đẫm máu ở Cao Miên, những cuộc nổi dậy ở Sài Gòn, Biên Hoà và ở nhiều địa phương khác là những cuộc biểu tình của "đám người" nôn nóng, muốn tòng quân "không do dự"?
   
Người ta ra sức đàn áp dã man các cuộc đảo ngũ (và có chừng 50% lính dự bị đảo ngũ). Do đó, các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra, nhưng bị bọn thực dân dìm trong bể máu. Những người An Nam ấy cũng bị chết trong thời chiến. Song người ta sẽ không cúng tế họ "sau khi chết", còn những người sống sót thì cũng chẳng được quan Toàn quyền khen thưởng.
   
Phải, quan Toàn quyền nói thêm rằng, dĩ nhiên muốn xứng đáng được hưởng "ân huệ" và "sự hậu đãi" của nhà nước thì các anh (những người lính Đông Dương) "phải có hạnh kiểm tốt, không mảy may tỏ ra thiếu thiện chí".
   
Hiện nay, khi họ dùng rượu và thuốc phiện do chính bàn tay chính phủ bán thì có thể nào họ lại không phải là những người "dễ bảo"?

Nguyễn Ái Quốc
Báo L'Humanité, ngày 2-11-1922.
 

VỀ CÂU CHUYỆN XIKI


Từ khi có chủ nghĩa thực dân, nhiều người da trắng đã được thuê tiền để đấm vỡ m... những người da đen. Có một lần, một người da đen lại cũng đã được thuê tiền để làm như vậy đối với một người da trắng. Là người chống lại mọi thứ bạo lực, chúng ta không tán thành cả hai lối đó. Nhưng sự việc vẫn cứ sờ sờ ra đó, thì chúng ta hãy nhận xét xem sao. Đây, như thế này:
   
Bằng một quả đấm - nếu không phải là đã đấm một cách khoa học thì ít ra cũng là một quả đấm bằng trời giáng - Xiki đã hạ bệ Cácpăngchiê để rồi đích thân mình trèo lên.
   
Chức vô địch quyền Anh đã chuyển sang tay khác, nhưng vinh quang của dân tộc về mặt thể thao thì không hề bị tổn thương, vì rằng Xiki là người con của xứ Xênêgan, do đó là con của nước Pháp, tức là người Pháp vậy.
   
Mặc dù thế, mỗi lần Cácpăngchiê thắng thì dĩ nhiên là do sự khéo léo và khoa học của anh. Nhưng lần nào anh bị bại thì cũng đều là do sức lực thô bạo của một anh như Đenxây hoặc do cái chân chơi ác của một anh như Xiki. Vì thế trong trận đấu ở Buýpphalô, người ta đã muốn tuyên bố - và người ta cũng đã tuyên bố - rằng Xiki mặc dù thắng đấy, nhưng "cũng vẫn" là bại. Nhưng công chúng, loại công chúng tốt, không muốn nghe như vậy. Và công lý của nhân dân đã thắng: Xiki được tuyên bố là vô địch hoàn cầu và nước Pháp.
   
Sau khi bị một người da đen hạ đo ván, Cácpăngchiê đã bình thản đi thăm nước Nga, đất nước của những người Đỏ. Chúng ta ngợi khen Xiki về thắng lợi của anh. Chúng ta cũng ngợi khen Cácpăngchiê về lòng vô tư của anh.

* * *

S.D.N. (xin đọc là xagiét đê naxiông(1), chứ không phải xôxiêtê đê naxiông(2)) nói rằng Thần Tài chỉ cười duyên với một người giàu có. Rơnê Marăng và Xiki đã làm chảy nhiều mực đen. Hơn nữa, Xiki còn làm chảy cả máu đỏ. Người ta làm như cả hai người anh em châu Phi của chúng ta còn cần đến nhiều mực nữa. Sau ngòi bút châm biếm của Marăng, đôi găng của Xiki đã làm rung động đến cả chính giới. Và ông Lukê, hội viên Hội đồng quận Xen, đã lập tức đưa ra một kiến nghị định cấm cuộc đấu quyền Anh ! Xin phép ông Lukê cho chúng tôi kính cẩn thưa với ông rằng, như vậy là ông đã làm một việc không yêu nước. Chúng tôi xin giải thích: Về phương diện chính trị quốc tế của chúng ta, một nhà vô địch quyền Anh hạng lông cũng tuyên truyền cho ảnh hưởng tinh thần của chúng ta ra nước ngoài như là một người bất tử, một người quang vinh, một ca sĩ hoặc mười đạo quân (ông hãy giở báo chí ra mà xem). Về phương diện quốc gia cũng cần thiết phải có một võ sĩ có tài để nêu gương và khuyến khích cái đẹp về thể lực cho thế hệ trẻ. Về phương diện thuộc địa, một trận đấu Cácpăngchiê - Xiki có giá trị hơn mười vạn bài diễn văn của những nhà cai trị nhằm chứng tỏ cho những con dân và những người được bảo hộ của chúng ta rằng, chúng ta muốn áp dụng triệt để nguyên tắc bình đẳng về chủng tộc.
Có nên hy sinh ba điều lợi đó cho một cái chủ nghĩa nhân đạo mơ hồ nào đó không? Không ! Có phải không, ông Xarô?


* * *

Theo tin các báo thì người ta vừa ra lệnh treo giò Xiki trong chín tháng, không cho dự tất cả các võ đài nước Pháp (Như vậy không hề có nghĩa là người ta sẽ đem treo Xiki đáng thương của chúng ta trong chín tháng đồng thời trên tất cả võ đài của nước Pháp đâu. - Xin nhắn với các bạn của chúng tôi ở Xênêgan như vậy). Lý do: đã lăng mạ ông Quyni.
   
Sao thế nhỉ? Trước đây người ta đã tuyên dương Xiki vì anh đã đánh sưng mũi ông Cácpăngchiê cơ mà. Ngày nay, Xiki chưa hề đụng đến chân lông Quyni, mà sao người ta đã tuyên bố hạ anh xuống như vậy? Người ta cũng không hề định làm cho chúng ta tưởng rằng cái... mặt của Quyni mảnh dẻ và quý báu hơn là mặt ông Cácpăngchiê, và rằng... Chả phải thế. Thật chẳng hiểu ra sao. Chúng tôi đoán có lẽ là thế này: người ta không bao giờ tha thứ cho Xiki là một người da đen đã thắng Cácpăngchiê là một người da trắng; và tuy Cácpăngchiê không có lòng hằn thù, nhưng chủ nghĩa vị chủng của những người khác thì lại đem lòng hằn thù. Và cái lý do kia chỉ là một cái lý do... vin lấy cho có lý do mà thôi.
   
Cũng theo các báo đó, chúng ta được biết rằng Bộ trưởng Bộ Nội vụ Anh đã cấm cuộc đấu dự định từ trước giữa Giôê Bếchkết và Xiki ở Luân Đôn. Việc này không làm cho chúng ta ngạc nhiên. Vì Cụ lớn nước Anh đã không thể tiêu hoá nổi món bánh hình lưỡi liềm1) của Kêman cũng như món sôcôla2) của Găngđi cho nên Ngài muốn bátlinh(3) Xiki phải nuốt liều thuốc tẩy của Ngài, mặc dù Xiki là một người Pháp. Các bạn đã hiểu chưa?(4).

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 9, ngày 1-12-1922.

1) Sagesse des nations: Đạo lý cuộc sống.
2) Société des Nations: Hội quốc liên.
1) Croissant: ý nói hình mặt trăng lưỡi liềm trên lá cờ của nước Thổ Nhĩ Kỳ.
2) Sôcôla: ý nói tới màu da của phần lớn người ấn Độ.
3) Battling: tên dịch ra từ tiếng Anh có nghĩa là đấu sĩ.
4) Nguyên văn viết bằng tiếng Anh: Understand.
 

NHỮNG QUAN TÒA THUỘC ĐỊA TỐT BỤNG CỦA CHÚNG TA


Bằng chỉ thị ngày 10 tháng 10 năm 1922, chính phủ đã thi hành nghị định về bổ nhiệm người vào chức quan toà thuộc địa. Trong số những người đó, chúng ta thấy tên các ông Luycaxơ và ông Oabrăng.
   
Cần nhắc lại sơ lược lai lịch của hai vị quan toà này.
   
Ông Luycaxơ là cựu chưởng lý ở Tây Phi thuộc Pháp, đã được nói tới nhân vụ rắc rối vừa rồi ở Tôgô. Trong thông cáo báo chí, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa đã buộc phải tuyên bố: "Cuộc điều tra đã xác định ông Luycaxơ có tham dự vào vụ việc, và điều đó đặt trách nhiệm rất nặng nề lên tổ chức quan toà".
   
Có lẽ để thưởng công về việc tham gia vụ bê bối, ông Luycaxơ đã được bổ nhiệm làm chủ toạ toà thượng thẩm ở châu Phi xích đạo thuộc Pháp.
   
Còn về Oabrăng thì lai lịch của ông ta đơn giản hơn và ít nổi tiếng hơn. Năm 1920, một người Pháp họ là Đuyếcgri, nhân viên hãng Pâyruýtxắc ở Căngcan (Ghinê) đi săn. Ông ta bắn một con chim rơi xuống sông. Một em bé chạy ngang qua. Đuyếcgri túm em bé vứt xuống sông và ra lệnh tìm bằng được con chim. Sông sâu, nước chảy xiết, em bé không biết bơi, đã chết chìm. Cha mẹ nạn nhân kiện lên nhà đương cục. Đuyếcgri bị viên chỉ huy khu gọi đến. Y đồng ý trả 100 phrăng cho gia đình đau khổ để ỉm vụ này.
   
Người cha mẹ bất hạnh từ chối cách dàn xếp đê tiện ấy. Viên chỉ huy giận dữ đứng về phía người đồng bào giết người của mình và doạ bỏ tù hai vợ chồng nếu họ khăng khăng đòi trừng trị kẻ giết người, sau đó, nói chung đã ỉm vụ ấy đi.
   
Song có một bức thư nặc danh báo chuyện này cho tổng công tố viên ở Đắcca. Toà án tối cao giao cho công tố viên sở tại Oabrăng điều tra tại chỗ. Ông Oabrăng đến Căngcan, ngủ tối tại nhà ông trưởng ga. Ngày hôm sau, ông ở nhà Đơ Lavalie, trợ lý của viên chỉ huy khu, sau đó, đi về, thậm chí chưa hề bắt tay vào việc điều tra. Điều đó không ngăn cản ông Oabrăng kết luận rằng bức thư mang tính chất vu khống. Hội Liên hiệp thuộc địa báo sự việc này cho Hội Nhân quyền và Dân quyền (ngày 22 tháng 12 năm 1921), nhưng có lẽ Hội coi sự việc không lấy gì làm giật gân lắm, nên chẳng thèm quan tâm đến.
   
Sau chuyến viếng thăm Căngcan, ông Oabrăng trong khi chờ nâng cấp, vẫn yên ổn ở lại cương vị của mình, nhận những con gà mái tơ và những bao tải khoai tây từ người bạn của ông là ông Cudanh đơ Lavalie gửi biếu.
   
Như các bạn thấy đấy, ông Oabrăng quả là xứng đáng với... phần thưởng chính đáng của chính phủ nước mình - được bổ nhiệm vào cương vị Tổng công tố viên của nước cộng hoà ở Đắcca.
   
Với sự có mặt của những Đáclơ, những Bôđoanh, những Oabrăng và những Luycaxơ, có thể nói rằng vận mệnh của nền văn minh tối cao, cũng như số phận của dân bản xứ ở các thuộc địa đều nằm trong những bàn tay đáng tin cậy.

Nguyễn Ái Quốc
Báo L'Humanité, ngày 4-12-1922.
 

SỰ THỊNH VƯỢNG CỦA ĐÔNG DƯƠNG DƯỚI TRIỀU ĐẠI M. LÔNG


Ngài A. Xarô, vị Bộ trưởng thuộc địa vĩ đại của chúng ta, không bao giờ bỏ sót một dịp nào để say sưa tán tụng về sự thịnh vượng của xứ Đông Dương, xứ Đông Dương "của Ngài", và về những sự nghiệp vĩ đại mà ngài cùng bộ hạ của ngài đã làm hoặc đang làm tại đấy. Để chứng minh rằng ngài chỉ nói đúng sự thật, chỉ nói độc có sự thật thôi, chúng tôi cần đưa ra cho ngài và cho các bạn chúng ta đọc những đoạn sau đây, trích ở một bức thư của đại tá Bécna gửi cho báo La République Franỗaise29, ngày 6-12-1922 và, thưa ngài Bộ trưởng, xin ngài cứ yên tâm, đại tá đó không phải là một người cộng sản đâu. Bức thư nói như sau:
   
"Số hàng xuất khẩu của Đông Dương hiện đang cầm chừng hay còn giảm xuống nữa. Năm 1914, Đông Dương đã xuất khẩu 45.000kg tơ lụa; 99.000 tấn ngô; 400 tấn chè; năm ngoái chỉ xuất khẩu có 15.000 kg tơ lụa; 32.000 tấn ngô; 156 tấn chè.
   
"Người ta cũng tưởng rằng hiện nay chính phủ Đông Dương đang tích cực tiến hành những công trình lớn cần thiết cho việc khai thác thuộc địa này. Thế nhưng, từ năm 1914 đến nay, người ta không hề đặt thêm được một kilômét đường sắt nào, cũng không khai thác thêm được một hécta ruộng đất nào. Cách đây mười năm, ông Xarô có đưa thông qua một chương trình kiến thiết bao gồm việc xây dựng con đường sắt từ Vinh đến Đông Hà và bốn hệ thống đại thuỷ nông; tất cả những công trình đó đều đã ngừng từ hơn năm năm nay, lấy cớ là không có kinh phí. Nhưng cũng trong thời gian đó, xứ Đông Dương đã dành ra 65 triệu đồng, 450 triệu phrăng để xây dựng đường sá và dinh thự. Mời ông Phagiê hãy suy nghĩ về những con số đó xem! Gần một nửa tỷ đã chi phí để xây dựng những đường ôtô chạy mà trên đó không hề lưu thông được lấy một tấn hàng hoá nào; để dựng những dinh thự và công sở cho hằng hà sa số công chức đang sinh sôi nảy nở như cây cối sum xuê vùng nhiệt đới; trong khi ấy thì những công trình đã được thừa nhận là tối cần thiết và đã được Nghị viện thông qua rồi, lại bị bỏ rơi.
   
"Nhưng xin đừng tưởng rằng người ta có ý muốn thay đổi phương pháp ở Đông Dương đâu. Để hoàn thành chương trình 1912, Ông Lông đã xin phép Nghị viện được phát hành công trái. Hiện nay, ông ta lại còn xin phép phát hành một công trái thứ hai nữa. Những kẻ hiện nay đang lãnh đạo việc khai thác xứ Đông Dương xem chừng đã định tâm không muốn làm cái gì thật sự có ích lợi cả, nếu trước hết người ta không cho phép họ được vay nợ. Còn đối với ngân quỹ, đối với những dự trữ gom góp được trong và sau thời kỳ chiến tranh, thì họ sẵn sàng vung tay ném qua cửa sổ, nếu Nghị viện không đưa họ vào nền nếp".

Nguyễn Ái Quốc
Báo La Vie Ouvrière, ngày 22-12-1922.
Nguồn tin: Thành Đoàn TP Hồ Chí Minh

Xem tin theo ngày tháng:
ÂM NHẠC
LIÊN KẾT WEB
Thống kê truy cập
Lượt truy cập:
13,542,675
Đang trực tuyến:
705
Tin xem nhiều